chiêu thức bán hàng hiện đại

chiêu thức bán hàng

chia sẻ

ADHD - RỐI LOẠN TÂM LÝ HAY ĐƠN GIẢN TRẺ CẦN THÊM THỜI GIAN?


KJ DELL’ANTONIA  11/03/2016

Nghiên cứu mới cho thấy các học sinh nhỏ nhất trong lớp thường dễ bị chẩn đoán có rối loạn tăng động kém chú ý (ADHD – attention deficit hyperactivity disorder) nhiều hơn các học sinh lớn nhất lớp. Kết quả đặt ra câu hỏi về cách thức chúng ta nhìn nhận những trẻ “hiếu động” – đồng thời cho thấy điều gì diễn ra với các trẻ nhỏ nhất lớp.

Những nhà nghiên cứu tại Đài Loan đã phân tích dữ liệu từ 378.881 trẻ từ 4 đến 17 tuổi  và phát hiện những trẻ sinh vào tháng 8, giới hạn để đăng ký vào học lớp 1 tại Đài Loan, thường có chẩn đoán ADHD nhiều hơn những trẻ sinh vào tháng 9. Các trẻ sinh vào tháng 9 thường nhập học trễ hơn một năm và do đó có thêm 12 tháng để trưởng thành trước khi bắt đầu đi học. Kết quả nghiên cứu được đăng tải trên Journal of Pediatrics.

Với bối cảnh có một số tranh cãi về việc liệu ADHD có thật sự là khiếm khuyết ngăn cản khả năng thành công trong đời sống và học tập của trẻ và liệu trị liệu có hiệu quả hay không, các giả nghiên cứu kết luận “kết quả nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cân nhắc độ tuổi của trẻ trong cùng một lớp khi chẩn đoán ADHD và kê toa thuốc điều trị rối loạn này”. TS Mu-Hong Chen, chủ nhiệm nghiên cứu, hi vọng rằng những hiểu biết về mối liên kết giữa độ tuổi vào học và chẩn đoán ADHD sẽ khuyến khích cha mẹ, giáo viên và các nhà lâm sàng cho các trẻ nhỏ trong lớp thêm thời gian, đồng thời trợ giúp, tạo điều kiện cho các em chứng tỏ khả năng của mình.

Các nghiên cứu khác cũng cho kết quả tương tự. Một nghiên cứu tại Mỹ cho thấy 8,4% trẻ sinh trong tháng trước hạn nhập học mẫu giáo tại bang mà gia đình trẻ sinh sống có chẩn đoán ADHD, cao hơn so với con số 5,1% trẻ có cùng chẩn đoán nhưng sinh vào ngay tháng tiếp theo.

Vậy chúng ta lý giải các khác biệt này như thế nào? Cần phải thận trọng là ý kiến của Michael Manos, giám đốc Trung tâm Đánh giá và Điều trị ADHD thuộc Bệnh viện Nhi Cleveland.

“Loại tập trung chú ý mà chúng ta sử dụng trong trường học là kiểu chú ý mà các trẻ có ADHD cảm thấy khá khó khăn khi đối mặt”, vậy nên trong môi trường học đường, chúng ta thường dễ nhận ra các triệu chứng kém chú chú ý, Manos cho biết. “Nếu quy trình chẩn đoán chính xác, một số trẻ sẽ được phát hiện sớm hơn các trẻ khác. Sẽ rất tốt nếu các trẻ nhỏ tuổi hơn có ADHD bắt đầu được điều trị sớm hơn vì vào học sớm hơn.

Nhưng thực tế lại cho thấy quy trình chẩn đoán lại không chính xác. Manos cho biết, “Nếu gia đình đưa trẻ đến khám tại phòng khám nhi khoa chăm sóc ban đầu với mỗi lần khám chỉ 15 phút, phụ huynh mô tả các đặc điểm tăng động của trẻ và bác sĩ tự động kê toa thuốc, chúng ta sẽ thấy ở đây có vấn đề.” Nhiều cha mẹ mô tả những lo lắng của mình về hành vi của trẻ không phải vì những hành vi đó không phù hợp với các giai đoạn phát triển, họ đang mô tả các hành vi không được như họ kì vọng”, điều này cũng có thể là vấn đề trong lớp học khi nhiều học sinh lớn tuổi hơn các học sinh khác.

Daphna Bassok, giáo sư tại ĐH Giáo dục Cury, chuyên nghiên cứu về mức độ sẵn sang vào học mẫu giáo của trẻ, cho biết, “Tôi nghĩ mối liên hệ giữa độ tuổi vào học và chẩn đoán ADHD chưa hẳn là về việc trẻ còn nhỏ hay ‘chưa đủ sẵn sàng’. Thay vào đó, tôi nghĩ vấn đề nằm ở độ tuổi tương đối của trẻ.”

“Vào các lớp nhỏ, một hay hai tháng tuổi chênh lệch có thể tạo ra khác biệt khá lớn. Bất kể tuổi thật của trẻ ra sao, các giáo viên thường nhìn nhận những trẻ nhỏ nhất lớp là có vấn đề về tập trung chú ý và hành vi nhiều hơn các trẻ lớn hơn.” Khi các giáo viên trên ghi nhận vấn đề, họ đã vạch sẵn kết quả chẩn đoán. Tuy nhiên, bản thân chẩn đoán vẫn phụ thuộc vào chuyên môn của nhà lâm sàng.

Stephen Hinshaw, đồng tác giả cuốn sách “A.D.H.D: What Everyone Needs to Know”, cho rằng những nhận biết sớm về triệu chứng kém chú ý “có thể là cơ hội để can thiệp sớm cho tất cả các trẻ mẫu giáo […] Mặt khác, nó cũng có thể khiến chúng ta dán nhãn quá mức cho trẻ, đa phần là các trẻ trai, và đó là điều chẳng ai mong muốn.” TS Hindshaw kết luận.

Link nguồn:


Dịch: Hành Lang Tâm Lý

MẤT NƯỚC ẢNH HƯỞNG NHƯ THẾ NÀO ĐẾN NÃO BỘ CỦA BẠN?

Ảnh hưởng của việc mất nước

Một nghiên cứu mới của ĐH Sức khoẻ, ĐH Massey vừa hé lộ những ảnh hưởng của việc mất nước lên khả năng tri giác và huyết áp của não bộ.
Hai nghiên cứu cùng sử dụng một phương pháp luận, tìm hiểu về tác động của việc uống không đủ nước lên cơ thể nhưng tập trung vào hai khía cạnh khác nhau.
TS Toby Mündel, giảng viên Khoa học Thể thao và Vận động, cho biết các nghiên cứu trước đây thường khiến nghiệm thể mất nước bằng cách sử dụng thuốc, vận động hay nhiệt độ. Ông cũng cho biết, với đa số chúng ta, mất nước diễn ra đơn giản vì không uống đủ nước.
“Ai cũng từng có lần như vậy. Bạn thức dậy trễ, vội đi làm, bỏ bữa sáng, sau đó chợt nhận ra đã đến bữa trưa và bạn chỉ mới uống mỗi một cốc cà phê. Như vậy, từ bữa tối hôm trước cho đến tận trưa hôm sau, khoảng 17 giờ, bạn chỉ mới hấp thụ 300 millilitres nước, ít hơn nhiều so với hơn 1 lít nước mà đáng lẽ bạn phải uống!”
TS Mündel cho biết các nghiên cứu về mức độ mất nước thường bao gồm các yếu tố tập thể dục, tăng nhiệt độ, kiểm soát lượng caffeine và thay đổi chế độ dinh dưỡng. “Tất cả những yếu tố này đều tác động rất lớn lên phản ứng tinh thần và thể chất của chúng ta, vì vậy chưa chắc một mình việc mất nước sẽ gây ra thay đổi. Chúng tôi muốn đưa mọi thứ về một nguồn nhất định.”
Vậy nghiên cứu được thực hiên như thế nào?
Các nghiệm thể đến ĐH Massey hai lần, chế độ ăn uống, hoạt động và lượng caffeine vẫn giữ nguyên. Khác biệt duy nhất là một trong hai lần họ sẽ hấp thu một lượng nước như bình thường, lần còn lại họ sẽ phải hạn chế uống nước suốt 24 giờ.
Trong cả hai lần, người tham gia đều phải nhúng chân vào nước lạnh, đây là xét nghiệm huyết áp lạnh. “Đó là cách để tạo ra cơn đau, một trong những điểm mà chúng tôi nghiên cứu, đây cũng là cách căn bản để thử thách và quan sát phản ứng của cơ thể, ví dụ như chống trả hay bỏ chạy, đây cũng là trọng tâm của nghiên cứu thứ hai. Hơn nữa, đây là xét nghiệm lâm sàng phổ biến dung để đo lường hoạt động của hệ thống tim mạch nơi một người ‘bình thường’,” TS Mundel cho biết.
Cử nhân Khoa học, Tracey Bear muốn tìm hiểu xem liệu mức độ mất nước ảnh hưởng như thế nào đến cảm giác đau của chúng ta. TS Mundel cho rằng đây là một khía cạnh quan trọng vì nhiề lý do. “Nếu bạn có bất kỳ điều kiện gì có thể khiến cảm giác đau tăng cao, bao gồm những tiêu chí lâm sàng như viêm khớp, ung thư, rối loạn xương cơ hay đau nửa đầu, hoặc bạn đang chuẩn bị phẫu thuật hay vừa phục hồi sau một ca mổ mà phải hạn chế sử dụng thức ăn hay nước uống, mất nước sẽ làm tăng mức độ đau và điều này không tốt chút nào.
“Kết quả nghiên cứu sẽ cho phép các chuyên gia y tế khuyến nghị những cách rất đơn giản để hạn chế cơn đau, ví dụ như uống đủ nước. Đồng thời, những phương pháp điều trị thông thường như thuốc giảm đau hay trị liệu nhận thức hành vi cũng sẽ có tác dụng tích cực hơn nếu bệnh nhân không bị mất nước.”
Nhóm nghiên cứu yêu cầu nghiệm thể đánh giá mức độ cơn đau họ cảm nhận khi chúng chân vào nước, đồng thời chấm điểm mức độ lo lắng về cơn đau. Bear nhận thấy những người càng mất nước thì càng cảm nhận cơn đau mãnh liệt hơn. Tuy nhiên, nếu nghiệm thể lo âu về cơn đau thì mức độ đau không thay đổi.
Trong nghiên cứu thứ hai, TS Blake Perry gắn các dây dẫn tín hiệu tim mạch lên người nghiệm thể trong thực nghiệm nhúng chân vào nước đávaf đo lường huyết áp, nhịp tim cùng phản ứng lưu lượng máu của họ.
Nghiên cứu cho thấy mất nước làm tăng cơn đau, điều này khiến cho nghiệm thể tăng thông khí (hyperventilation) hay thở nhiều hơn, làm giảm phản ứng lưu lượng máu não. “Tuy rất khó để diễn dịch toàn bộ kết quả, chúng ta vẫn có thể kết luận răng bất kể đánh giá hay nghiên cứu lâm sàng nào thực hiện test áp lực lạnh (nhúng chân vào đá) đều cần phải kiểm tra và bảo toàn mức độ mất nước để tránh làm sai lệch kết quả”, TS Mundel cho biết.

Link nghiên cứu của Blake Perry: http://onlinelibrary.wiley.com/doi/10.1113/EP085449/full 
Link gốc:


Dịch: Hành Lang Tâm Lý

 
Ky nang ban hang ky-nang-ban-hang
10 10 1125 (c) by
Google

Join us on Facebook

Please wait..5 SecondsCancel