chiêu thức bán hàng hiện đại

chiêu thức bán hàng

chia sẻ

bán hàng , khách hàng , chốt sale

bán hàng , khách hàng , chốt sale
bán hàng , khách hàng , chốt sale khó không
bán hàng , khách hàng , chốt sale như thế nào

BÍ QUYẾT ĐỂ TRỞ LẠI LÀM VIỆC SAU KÌ NGHỈ

Làm sao quay lại công việc sau kì nghỉ?

Đã bao giờ bạn cảm thấy tiếc nuối về kì nghỉ bạn vừa trải qua do phải “đau khổ” trở lại nhịp sống hàng ngày?
Ví như bạn vừa trải qua một kì nghỉ Tết với gia đình và bánh mứt ngào ngạt. Nay khi quay lại thành phố, bạn sẽ thấy vô cùng khó khăn trong việc tái thích nghi với các hoạt động tẻ nhạt hay các bữa ăn đơn diệu. Bạn trở lại căn phòng nhỏ hẹp, ăn nốt những món ăn còn sót lại nhắc nhớ bạn đến khoảng thời gian tuyệt vời mình vừa mới tận hưởng chỉ mấy ngày trước (đoạn này được ngừoi dịch phỏng dịch để phù hợp với hoàn cảnh hiện tại ở Việt Nam).
Giống như những hình ảnh sống động còn đọng lại của một bộ phim vừa kết thúc, trí nhớ bạn bắt đầu dựng nên sự tương phản phũ phàng giữa những kỉ niệm ngọt ngào và thực tại buồn chán. Trong quá trình “tái hoà nhập”, bạn sẽ trải nghiệm một giai đoạn chuyển giao về lại nhịp sống cũ, về những thói quen bình thường, đối mặt với những khác biệt về văn hoá, địa lý và khí hậu nay chẳng còn hào nhoáng như lần đầu bạn gặp.  
Tại sao một kì nghỉ ngắn ngủi lại có khả năng tạo ra nhiều âu sầu đến thế? Bạn có thể tự nhủ, vậy còn đâu là những niềm vui của kì nghỉ khi cuộc đời xem ra trở nên quá đỗi khó khăn lúc hậu Tết?
Đây là một số cách bạn có thể khiến cho tiến trình tái hoà nhập trở nên dễ dàng hơn:
1. Trân trọng những trải nghiệm. Luôn có cách để trân trọng những trải nghiệm tuyệt vời mà không khiến bạn phải cảm thấy thất vọng. Tuy nhiên, nó cần đến một ít thay đổi trong nhận thức. Bạn có thể bắt đầu bằng cách hiểu rằng những thời khắc đó mang đầy giá trị, và là một phần vô cùng quan trọng kiến tạo nên cuộc đời của bạn. Thật vậy, bất kỳ khoảng thời gian nào khiến bạn thật sự cảm thấy thoải mái, dù là dài hay ngắn ra sao, đều đại diện cho con ngừoi của bạn và thể hiện cách bạn sống cuộc đời của mình. Nó không chỉ có giá trị tương đương nhưng thậm chí còn có thể nhiều hơn những khoảng thời gian khác. Cho bản thân cơ hội để hít thở, thư giãn mà không phải đối mặt đến những nhu cầu về thời gian hay tập trung, bạn có thể biến cuộc sống thường nhật trở nên gần giống nhất có thể với kì nghỉ vừa qua.
2. Đưa những trải nghiệm mới vào trong cuộc sống. Bằng cách kết hợp những phần đẹp nhất của kì nghỉ vào trong lich trình hàng ngày, bạn có thể biến ký ức trở nên những điều sống động, lâu dài trong tâm trí và cuộc sống của mình. Nhờ vậy, ký ức sẽ không tự lụi tàn ngay giây phút bạn bước chân khỏi máy bay hay xe khách. Bạn có thể tự nhủ rằng: “Mình quyết tâm sẽ biến những kỷ niệm vừa qua thành một phần trong cuộc sống của mình. Mình yêu và mình xứng đáng có những kỷ niệm đó.” Ngoài ra, bạn có thể bắt đầu tìm cách duy trì trạng thái tinh thần hiện có bằng cách tìm một nhà hàng, một cửa tiệm, một cộng đồng, một sinh hoạt hay một thói quen giúp bạn củng cố những ký ức mà bạn lo sợ có thể bị biến mất.
3. Hãy định kỳ tưởng tượng và tự mình tận hưởng những ký ức đó như một cách để giải toả căng thẳng. Những nghiên cứu trong khoa học thần kinh cho thấy việc đơn thuần tưởng tượng bản thân đang ở địa điểm khiến bạn cảm thấy thoải mái có thể mang lại những lợi ích bất ngờ. Trí tưởng tượng, nếu biết cách sử dụng để đưa bản thân vào trạng thái tinh thần tích cực (chứ không phải đắm chìm vào những suy nghĩ tiêu cực hay nuối tiếc về hoàn cảnh hiện tại), có thể đưa bạn đến những cảm giác thư thái nhẹ nhàng, vượt lên trên những nguy cơ âu lo và căng thẳng.
4. Sử dụng hiệu ứng phi thực tế (derealization effect) để thay đổi cách bạn nhìn những người xung quanh. Một hiệu ứng tinh thần khá thú vị hay diễn ra sau những chuyến du lịch xa là hiệu ứng phi thực tế. Điều này có thể xảy ra với mọi người, bạn sẽ cảm thấy những điều xung quanh bạn trở nên không thực. Ở những nơi khác với ở nhà, khi những khác biệt, cả lớn và nhỏ, được giác quan của bạn tiếp thu trong vài giờ hay vài ngày đầu, sự phân ly giữa nhận thức thực tế và kì vọng vô thức sẽ xuất hiện. Với nhiều người, đó có thể là cảm giác lâng lâng giống như đang mơ, hay đang sống trong một bộ phim rất chân thực, nhưng không bao giờ đến mức không còn nhận biết những gì đang diễn ra. Như vậy, sau khi trở về, để ứng phó với việc thay đổi nhịp sống hay xáo trộn về cảm xúc, bạn có thể tạm ẩn mình trong cảm giác phi thực tế còn sót lại đó. Hãy cho phép bản thân gặp gỡ mọi người theo một cách mới, với niềm trân trọng những ý nghĩa mà họ có đối với bạn. Với cảm giác phi thực tế này vẫn còn tồn tại, bạn có thể thấy những người xung quanh trở nên tươi mới hơn, tương tự như cách bạn trải nghiệm cùng với những người khác trong kì nghỉ vừa qua.
5. Đưa những cảm xúc mới trở thành động lực cho sự thay đổi. Khi năng lượng của bạn vừa được tái tạo, lúc này chẳng phải là lúc tốt nhất để có những ý tưởng mới giúp thay đổi sự nghiệp, mối quan hệ hay cuộc sống của bạn hay sao? Thay đổi môi trường thường giúp mở rộng tầm nhìn và giúp bạn nhìn nhận lại bản thân. Đồng thời, bạn cũng có thể đưa nguồn năng lượng thay đổi này vào trong môi trường làm việc. Tuy nhiên, cũng nên cẩn thận đừng để sự tự tin kéo theo đòi hỏi hay tự cách li khỏi môi trường cũ.  
6. Có cái nhìn rõ ràng hơn về cuộc sống của mình. Chúng ta hay có xu hướng lý tưởng hoá quá mức những trải nghiệm tuyệt vời mà mình có. Vậy nên, khi chiếc hộp Pandora (ký ức cũ) được mở ra, nó tự động kéo theo những so sánh đầy thương đau, chua chát. (Một ví dụ có lẽ hơi tầm thường: ngay cả lon nước ngọt hay bịch snack ở nhà cũng có thể khiến chúng ta so sánh những thứ tầm thường, tẻ nhạt và độc hại trong hiện tại với những thứ vui tai, lạ mắt trong kì nghỉ). Nếu bạn có thể khiến những so sánh của mình trở nên thực tế hơn và nhận ra rằng bạn không phải lúc nào cũng có được mọi thứ (ít nhất là không phải mọi thứ cùng một lúc hay cùng một chỗ), viêch chấp nhận giá trị của những điều bạn đang làm trong hiện tạo sẽ trở nên dễ dàng hơn. Với suy nghĩ này, hi vọng bạn có thể có một giai đoạn chuyển giao êm ái, không bão tố về lại với đời sống thường nhật của mình…cho đến khi kì nghỉ tới xuất hiện.


Dịch: Hành Lang Tâm Lý

TUỔI TÁC ẢNH HƯỞNG ĐẾN NHÂN CÁCH NHƯ THẾ NÀO?

 
Não bộ và nhân cách

Trái ngược với thành kiến về việc ngừoi cao tuổi hay nhăn nhó, khó tính, nghiên cứu cho thấy chúng ta trở nên tốt bụng hơn khi già đi.


Kết quả này có thể sẽ làm bất ngờ những người tin rằng con người không bao giờ thay đổi. Chúng ta thay đổi – dù là ít hay nhiều.
Nhìn chung, có 3 nét tính cách chính thay đổi tỉ lệ với độ tuổi:
§  Tận tâm hơn (conscientious)
§  Dễ chịu hơn (agreeableness)
§  Và ít Bất ổn hơn (neuroticím).

Nghiên cứu được thực hiện trên chụp hình não bộ của 500 tình nguyện viên. Các nhà khoa học nhận thấy rằng những thay đổi điển hình trong cấu trúc não bộ diễn ra khi con người già đi có liên hệ với những thay đổi về nhân cách.
TS Roberta Riccelli, tác giả của nghiên cứu cho biết:
“Nghiên cứu của chúng tôi ủng hộ giả thuyết cho rằng, ở một mức độ nào đó, nhân cách có liên hệ với sự trưởng thành của não bộ, một tiến trình phát triển chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các tác nhân di truyền.”

Những thay đổi trong nhân cách cho thấy có sự ảnh hưởng của di truyền được GS Nicola Toschi, đồng tác giả nghiên cứu, giải thích như sau:
“Tất nhiên chúng ta liên tục được định hình bởi môi trường cũng như những kinh nghiệm cá nhân, tuy nhiên mối liên hệ giữa những khác biệt trong cấu trúc não bộ với khác biệt trong nét nhân cách cho thấy gần như chác chắn di truyền là một yếu tố có liên quan.
Điều này cũng đúng với nhận định cho rằng các nét nhân cách có thể được phát hiện sớm trong tiến trình phát triển, ví dụ từ tuổi mẫu giáo hay sơ sinh”
TS Luca Passamonti, đồng tác giả của nghiên cứu cho biết:
“Việc liên hệ cách thức cấu trúc não bộ tương tác với các nét nhân cách là bước quan trọng trong việc nâng cao hiểu biết của chúng ta về mối quan hệ giữa hình thái não bộ và cảm xúc, nhận thức hay các rối loạn hành vi
Chúng ta cũng cần có nhiều hiểu biết hơn về mối quan hệ giữa cấu trúc não và chức năng hoạt động ở những người khoẻ mạnh nhằm tìm ra những gì tạo nên sự khác biệt nơi những người có các rối loạn tâm-thần-kinh.”
Nghiên cứu được xuất bản trên tạp chí Social Cognitive and Affective Neuroscience (Riccelli et al., 2016).


Dịch: Hành Lang Tâm Lý

TÂM LÝ HỌC VỀ BẠO HÀNH ĐỘNG VẬT

Trẻ em và cách đối xử với động vật

Càng ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy trẻ em có những hành vi bạo lực trên động vật có khả năng sẽ thực hiện các hành vi tương tự với người khác trong tương lai. Lý do và hệ quả của hiện tượng này rất đa dạng. Với sự hướng dẫn của ngừoi lớn, trẻ có thể học cách đồng cảm với mọi người và mọi vật xung quanh. Tuy nhiên, nếu thiếu sự can thiệp trên, trẻ sẽ có thể vướng vào vòng xoáy bạo lực trước những cá nhân yếu thế và không bảo vệ được bản thân.

“Chấm dứt bạo hành động vật là bước quan trọng để chấm dứt mọi loại bạo lực” [1]

Bạo lực gia đình, lạm dụng trẻ em và bạo hành động vậy từ lâu đã được chứng minh là có chung một nguồn gốc [2]. Tuy nhiên, phát hiện này lại không được quan tâm chú ý đúng mức. Frank Ascione,nhà nghiên cứu hàng đầu về bạo hành động vật và mối liên hệ tới bạo lực ở con người, cho rằng: “bao hành động vật đã không được nhìn nhận, thậm chí đôi khi bị loại trừ, như một dấu hiệu nguy cơ hay một hành vi cảnh báo giúp nhận diện những trẻ có nguy cơ thực hiện các hành vi bạo lực với người xung quanh”[3].
Mối liên hệ rõ rang này đã bị đánh giá thấp trong một thời gian dài.

Nghiên cứu về mối liên hệ giữa bạo hành động vật và bạo lực trên con người đã phát triển khá nhanh trong hai thập kỷ gần đây. Các nhà chuyên môn trong nhiều lĩnh vực khác nhau đã công nhận rằng hiện tượng bạo hành động vât cần phải được liên tục theo dõi.

Đến tận đầu thế kỷ 21, các nhà nghiên cứu mới bắt đầu chấp nhận quan điểm cho rằng bại hành động vật không phải tự nhiên mà có [4] và hành vi này là chỉ báo cho các dạng bại lực khác. Một phần lý do của điều này là việc đến tận gần đây chúng ta mới chấp nhận động vật là một kiểu “nạn nhân tiềm năng” [5]. Đi kèm yếu tố trên là sự đa dạng trong định nghĩa về bạo hành và lạm dụng, cách đo lường và ghi nhận cũng gây nhiều tranh cãi. Đồng thời, các nhà nghiên cứu thường chỉ tập trung tìm hiểu cách động vật được đối xử hay bị ngược đãi trong bối cảnh xã hội của riêng họ mà thôi [6]. Gần đây, các nhà nghiên cứu mới bắt đầu tranh luận rằng liệu các trường hợp lạm dụng hay bạo hành động vật có nên được xem là một yếu tố can dự vào khuôn khổ vi phạm pháp luật hay không, lý do là vì nó có thể được xem như một chỉ báo cho bạo lực gia đình [7].

Nghiên cứu và đánh giá hiện tượng này thường chỉ giới hạn trong giới học thuật. Tuy nhiên, việc phổ biến cho đại chúng lại khá hiếm và gặp nhiều vấn đề. Với việc những thông tin quan trọng và kịp thời về những khía cạnh bên dưới bạo lực với động vật và con người chỉ hạn chế trong các tạp chí khoa học, vậy chúng ta cần phải hành động như thế nào? Một trong những câu trả lời là thông qua trường lớp và các tổ chức. Tuy nhiên, có vẻ bấy nhiêu là chưa đủ. Dù chúng ta đã biết động vật có vô vàn những đặc điểm và phẩm chất có lợi cho con người, “việc đồng cảm [với động vật] không đơn giản là thứ gì đó có thể dễ dàng đưa vào người như tiêm chủng; nó là một quá trình học tập lâu dài” [8]. Cha mẹ, giáo viên, cũng như động vật là những tác động quan trọng và không thể thiếu cho sự phát triển nhận thức. Động vật đem lại lợi ích cho sức khoẻ con người [9]. Đồng thời, chúng cũng là một trong những nhà giáo dục quan trọng trong việc xây dựng các phẩm chất tích cực trong quá trình phát triển của trẻ. [10]. Những phần tiếp theo sẽ cung cấp những khía cạnh nổi bật và quan trọng về các yếu tố tâm lý trong hành vi bạo hành động vật.

Mối liên hệ giữa bạo hành động vật và bạo lực với người

Đến tận đầu thế kỷ 20, vẫn có rất ít những nghiên cứu về mói quan hệ giữa trẻ em với động vật. Phải đến tận đầu thế kỷ 21 ý tưởng trên mới được phân tích sâu rộng [12]. Các nhà nghiên cứu bắt đầu nhận ra bạo hành động vật không chỉ đơn giản là một ý tưởng ban đầu về bạo lực, đó còn là một hiên tượng phức tạp hơn nhiều. [13].

Các nhà tư tưởng lớn trong lịch sử đã từ lâu cho rằng có tồn tại một mối liên hệ giữa cách chúng ta hành xử với động vật và cách chúng ta cư xử với bản thân và những ngừoi xung quanh [14]. Gandhi, một trong những người tiên phong trong phong trào bất tuân dân sự phi bạo lực, đã tóm gọn như sau: “Sự vĩ đại và đạo đức của một quốc gia có thể được đánh giá qua cách động vật của quốc gia đó được đối xử” [15] Mối liên hệ trên trẻ nên nổi tiếng đến mức nhiều nhà nghiên cứu biết đến nó đơn giản thông qua cụm từ “mối liên hệ”[16]. Các triết gia, nghệ sĩ và các nhà nhân chủng học vẫn luôn đề xuất, thậm chí đòi hỏi chúng ra nhìn nhận và hành động trước mối liên hệ này.

Cuối những năm 1600, triết gia John Locke đã nói “Hãm hại động vật có hệ quả huye diệt đối với những ai thực hiện nó”. Năm 1751, William Hogarth đã mô tả mối liên hệ giữa bạo lực động vật và bạo lức với con người trong một loạt các phù điêu mang tên “Bốn Gia đoạn của sự Tàn ác”. Các phù điêu kể lại cuộc đời của Tom Nero, người đi từ việc hành hạ những chú chó lúc còn nhỏ đến việc hiếp dâm và giết người khi lớn, trước khi bị xử treo cổ [17]. Tiến trình hình thành bạo lực tương tự được đề cập bởi nhà nhân chủng học Margaret Mead vào những năm 60 và bởi Anna Freud vào những năm 80: “Sụ tàn bạo có thể là triệu chứng của rối loạn nhân cách”. Theo những nhà lý thuyết trên, trẻ em và trẻ vị thành niên hãm hại động vật có thể dần dà thực hiện hành vi bạo lực này đến hành vi bạo lực khác, mỗi hành vi sẽ dần làm chúng mất đi cảm giác về bạo lực hay kích hoạt những xu hướng huỷ hoại tiềm tàng. Khi những xung năng trên được giải phóng, “con đập ngăn ngừa bạo lực sẽ mở toang”, khiến cho đối tượng của các hành vi bạo lực chuyển từ động vật lên người, đặc biệt là nhữn người gần gũi với trẻ (nói cách khác, chính gia đình của trẻ) [19].

“Ở đâu có bạo hành động vật, ở đó có bạo lực với con người”[20]

Như Arluke (2006) giải thích, “với mỗi nghiên cứu tìm thấy mối liên hệ giữa bạo hành động vật và xung năng bạo lực […], sẽ có một nghiên cứu khác không tìm thấy mối liên hệ đó”. Điều này có thể do khác biệt trong phương pháp nghiên cứu. Đa phần các nghiên cứu trong lĩnh vực này được thực hiện thông qua khảo sát và bảng hỏi. Phương pháp này bị chỉ trích do khả năng những người thực hiện hay trải nghiệm hành vi bạo lực sẽ không đưa ra những câu trả lời đúng với thực tế. Một giải thích khác phản biện lại mối liên hệ này là tính hai chiều của nó. Nếu vậy, tình thương với động vật cũng sẽ là chỉ báo cho long nhân ái giành cho con người. Tuy nhiên, một ví dụ minh chứng trong trường hợp ngược lại thường được sử dụng là ý kiến cho rằng trong nước Đức Phát xít, phúc lợi giành cho động vật cao hơn giành cho con người, hay Birdman Alcatraz, kẻ giết người hàng loạt lại chăm sóc hàng trăm con chim khác nhau [21].

i) Tam giác Macdonald và ảnh hưởng của văn hoá
Theo tam giác MacDonald, lạm dụng động vật, cùng với đốt lửa và đái dầm ở trẻ là các yếu tố cảnh báo bạo lực về sau ở trẻ [22]. Dù học thuyết này nhần nhiều sự phê bình, có nhiều lý do về văn hoá xã hội vẫn khiến chúng ta phải nghiêm túc xem xét. [23]. Rất nhiều sách báo, phim ảnh đã mô tả những nhân vật có hành vi bạo lực với động vật như là bước đâu tiên trong một chuỗi các hành vi dẫn đến việc cuối cùng sẽ hãm hại nguòi khác. Phần lớn các sát nhân nổi tiếng đều có lịch sử bạo hành động vật, đặc biệt là đều có các triệu chứng mà MacDonald mô tả khi còn nhỏ [24]. Một loạt những người xả sung hàng loạt trong các trương học những năm vừa qua cũng có lịch sử về bạo hành động vật lúc nhỏ, đặc biệt là Luke Woodham,[25] Kip Kinkel[26], và sát nhân tại ĐH Columbine Eric Harris và Dylan Klebold[27].

Dù rõ ràng là đốt lửa, đái dầm, và ngay cả bạo hành động vật là không đủ và chưa chắc hẳn luôn dẫn đến bạo lực, rất nhiều người vẫn xem chúng là những hành vi chỉ báo. Tuy nhiên, quan trọng không kém là cách xã hội phản ứng trước những sự kiện trên [28]. Các nhà phê bình hay tranh luận rằng “tiến trình” bạo lực động vật-con người, trong đó một yếu tố sẽ dẫn đến cái còn lại, vẫn còn nhiều thiếu sót và xem nhẹ những khía cạnh đa chiều của “những hành vi xã hội được thiết chế hoá (institutionalized social practices), trong đó việc bạo hành động vật diễn ra thường xuyên, rộng khắp, và được xã hội chấp nhận” [29]. Đó là mâu thuẫn kinh điển giữa hai yếu tố bẩm sinh và môi trường.

ii) Bạo hành đông vật và Bạo lực gia đình
Các nhà khoa học xã hội và các cơ quan hành pháp mới đây đã bắt đầu nghiên cứu về nguồn gốc của bạo lực. Họ đã liên kết các hành vi bạo hành động vật với việc lạm dụng hay bỏ mặc trẻ em, bạo lực trong gia đình và bạo lực trong cộng đồng. Các nhân viên hành pháp, công tố viên, những cơ quan dich vụ xã hội, bác sĩ, các chuyên gia sức khoẻ tâm thần đã cùng làm việc với các bác sĩ thú y và những nhân viên kiểm soát động vật để đề ra chiến lược bảo vệ những ngừoi yếu thế trong cộng đồng. Lý do là vì những ngừoi thực hiện các hành vi bạo lực thường đe doạ hay thực hiện các hành vi bạo lực để hãm hại động vật, đặc biệt là vật nuôi như một “cách thức giành lấy và duy trì quyền kiểm soát lên gia đình” [30]. Dù diều này ngày càng được thể hiện rõ và trở thành một yếu tố quan trọng [31], các nghiên cứu liên tục cho thấy các dịch vụ và cơ sở xã hội thường ít khi hỏi về vấn đề trên.
·     Theo Văn phòng Thống kê Australia, “có khoảng 1 trên 12 phụ nữ bị lạm dụng về cảm xúc bởi đối tác của mình cho biết vật nuôi của họ từng bị hãm hại” [32]
·     Trong một nghiên cứu trên 200 phụ nữ đang phải tạm trú do bạo lực gia đình, gần 55% cho biết, “thành viên trong gia đình hay đối tác của họ từng đe doạ giết vật nuôi hay gia súc của họ”. Xấp xỉ một phần ba người tham gia nghiên cứu cho biết vật nuôi của họ từng bị giết hay bị gây thương tích trong suốt mối quan hệ. 90% người đe doạ hay gây thương tích/ giết là vợ hay chồng của họ” [33].
·     Một nghiên cứu tại Úc thực hiện vào năm 2012 cho thấy, trong 26 phụ nữ được khảo sát tại các trung tâm dịch vụ xã hội cho người bị bạo lực gia đình, 92% chobiết “họ từng phải nói chuyện về bạo hành động vật cho các bác sĩ thú y”, rất nhiều người trong số họ không biết, hay không có đủ thông tin, về việc họ có thể sử dụng các dịch vụ chăm sóc vật nuôi khi chấm dứt một mối quan hệ có bạo hành gia đình. Ngay cả những người biết về những dịch vụ này cũng “không sẵn sang sử dụng” các dịch vụ đó, nguyên do thường được đưa ra là mối liên kết của họ với vật nuôi” [34].
·     Khoảng 88% vật nuôi trong các gia đình có bạo hành thường bị lạm dụng hay bị giết. Tại Mỹ, 57% phụ nữ trong các trung tâm dịch vụ xã hội cho người bị bạo lực gia đình có vật nuôi bị giết bởi người bạo hành. Việc bỏ bê vật nuôi cũng có thể là chỉ báo cho việc bỏ bê con cái.
·     Trong các trường hợp chứng kiến bạo lực hay ngược đãi động vật, can thiệp sớm có thể có tác dụng ngăn chặn hành vi được thực hiện, dù ngừoi bạo hành là trẻ em hay ngừoi lớn. Các trường hợp bạo hành động vật nghiêm trọng hay liên tiếp xảy ra cần có xử phạt hình sự lẫn điều trị y khoa.

Nghiên cứu liên tục cho thấy lạm dụng động vật cần được các nhà khoa học chú ý cẩn trọng và lâu dài. Lý do vì:
·     Đa số, nếu không phải tất cả, các nhà chuyên môn đều cho rằng tàn bạo với động vật có thể là “hành vi chông đối xã hội nghiêm trọng”, đóng vai trò cảnh báo hay nhận biết bạo lực trong tương lai. Bản thân người ngược đãi động vậy thường là nạn nhân của bạo lực, các nghiên cứ cho thấy lạm dụng vật nuôi thường đi kèm với bạo lực gia đình.
·     Bạo hành động vật “thường xuyên xảy ra”, nhiều nghiên cứu cho thấy “một nửa trẻ em từng chứng kiến và một phần năm từng thực hiên hành vi này” [35].
·     Những hệ quả tiêu cực trong tiến trình phát triển của trẻ có thể có tương quan hay là kết quả trực tiếp của việc ngược đãi động vật. Hành vi này được liệt kê như một triệu chứng của Rối loạn Cư xử (Conduct Disorder), và thường dẫn đến việc “ngăn chặn hay làm biến chất khả năng thấu cảm”.
·     […]

Vấn đề về Định nghĩa?

Xã hội thường phân loại một số loài vật là cần loại trừ, hay gán những ngôn ngữ tiêu cực lên loài vật đó, cố ý cho chúng ta biết là cuộc sống của chúng không quan trọng. Ví dụ như các từ “sâu hại” hay loài gặm nhấm”. Việc giết hay hãm hại các loài vật trên không những không bị chú trọng mà còn được khuyến khích công khai, “bất kể cách thức hay với ý định gì” [38]. Tuy nhiên, mỗi loài vật lại được phân loại khác nhau trong mỗi nền văn hoá, kết quả là đưa đến một định nghĩa khá mong manh về việc “tàn bạo với động vật” thật sự có ý nghĩa gì […]
Định nghĩa về lạm dụng hay ngược đãi động vật thường được các nhà nghiên cứu sử dụng như sau: “hành vi không được xã hội chấp nhận trong việc cố tình gây đau đớn, chịu đựng, căng thẳng hoặc sát hại không cần thiết với động vật” [42]. Tuy nhiên, một số hành vi bạo lực với động vật thường được chấp nhận, cho phép hay thậm chí tán dương bởi một số nguời, lại không nằm trong định nghĩa trên. Săn bắn là một ví dụ. Việc sát hại kinh hoàng và tàn bạo hàng triệu con kangaroo là một ví dụ. Kangaroo là đối tượng bị sát hại trong tự nhiên nhiều nhất trên thế giới chỉ sau hải cẩu Canada [43]. Việc giết hại hàng loạt này được xã hội cho phép. Trong một báo cáo với Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ, Ascione đã lý giải một số ngoại lệ trong các hành vi bạo lực và tàn bạo dựa trên cơ sở rằng các nền văn hoá khác nhau gắn những ý nghĩa khác nhau lên hành vi bạo hành động vật. Thật vậy, hành vi lạm dụng ở văn hoá này có thể lại là một môn thể thao ở nền văn hoá khác [44].
Ascione đưa ra ví dụ về việc dự thảo đưa rodeo (trò chơi cưỡi bò hay bắt bò của cao bồi Mỹ) và đấu bò tại Thế Vận Hội 2002. Đa số người dân sẽ cảm thấy “kinh tởm” về đề xuất này. Tuy nhiên, nếu đề nghị tương tự được đưa ra tại Tây Ban Nha, nó sẽ lại “ít gây tranh cãi hơn”, chủ yếu là do “khác biệt về tiêu chuẩn văn hoá trong việc đối xử với động vật”. Đây chính là chủ nghĩa tương đối trong văn hoá. Một nghiên cứu về sự khác biệt trong các niềm tin và quy luật văn hoá vào năm 1992 của  Robert B. Edgerton đã cho thấy, một số hành vi và thực hành “không mang tính thích ứng về văn hoá”. Chúng ta có khả năng đặt mình vào nhiều vị thế (positivity) khác nhau, thì ngược lại, “chúng ta cũng có khả năng duy trì các niềm tin, giá trị và thiết chế xã hội dẫn đến các hành động tàn bạo phi nghĩa, gây đau khổ không cần thiết và cực kỳ điên rồ đối với nhau cũng như với các xã hội khác cùng môi trường hiện hữu quanh xã hội đó [45]. Điều này đúng với xã hội của chúng ta cũng như với các xã hội khác.

Tại sao trẻ lại hãm hại động vật

Đa số các nhà nghiên cứu đồng ý rằng ngược đãi đông vật không chỉ đơn thuần là hệ quả khiếm khuyết về nhân cách ở người ngược đãi. Đó còn là triệu chứng của một bối cảnh chịu tổn thương nghiêm trọng. Những người bạo hành động vật thường chủ yếu là nam giới ở độ tuổi vị thành niên, có thể đến từ bất kỳ sắc tộc hay điều kiện kinh tế xã hội nào.
Nghiên cứu cho thấy bản thân trẻ em lạm dụng động vật thường là nạn nhân của lạm dụng, từng chứng kiến bạo hành trong gia đình hay học cách phản ứng trước cơn giận hay sự thất vọng thông qua bạo lực từ chính cha mẹ. Những trẻ này sẽ thực hiện hành vi bạo lực lên một thành viên khác yếu thế hơn tron ggia đình, mà thường sẽ là vật nuôi.

Bạn có thể hỗ trợ bằng cách nào:

·     Cần nhận biết mối liên hệ giữa bạo lực với động vật và các loại bạo lực khác, đặc biệt là ở trẻ em. Can thiệp sớm có thể giúp thay đổi vòng xoáy bạo lực trên
·     Đừng làm ngơ trước viêc ngược đãi động vật ở trẻ em bằng cách cho rằng “nó mới là con nít”. Nếu trẻ có hành vi tàn bạo với động vật, đó có thể là dấu hiệu trẻ đang cần sự trợ giúp.
·     Nếu bạn nghe hay thấy trẻ hay động vật bị bạo hành, hãy tìm kiếm sụ hỗ trợ. Không hành động nghĩa là đang chấp nhận hay tham gia vào hành vi bạo hành. […]

Link bài viết: http://animal-lib.org.au/campaigns/animal-rights-theories/the-psychology-of-violence-against-animals
Dịch: Hành Lang Tâm Lý

Tài liệu tham khảo

[1]Flynn, C. P., 2011, ‘Examining the links between animal abuse and human violence,’ Crime, Law and Social Change, vol. 55, pp. 453-468.
[2]Ascione, F. R., 2005, Children and Animals: Exploring the Roots of Kindness and Cruelty, Purdue University Press, Indiana.
[3]Ascione, F. R., 2001, ‘Animal abuse and youth violence,’ US Department of Justice, Office of Juvenile Justice and Delinquency Prevention, Juvenile Justice Bulletin. Available at: https://www.ncjrs.gov/pdffiles1/ojjdp/188677.pdf
[4]The Humane Society of the United States (HSUS), n.d., First Strike: The Violence Connection. Available at:http://www.humanesociety.org/assets/pdfs/abuse/first_strike.pdf
[5]Merz-Perez, L. and Heide, K. M., 2004, Animal Cruelty: Pathway to Violence against People, AltaMira Press, Oxford.
[6]Ascione, F. R., 2005, Children and Animals: Exploring the Roots of Kindness and Cruelty, Purdue University Press, Indiana.
[7]Killeen, A., 2014, ‘Animals and domestic violence,’ New Zealand Law Journal, March, pp. 71-75
[8]Vachss, A., 2005, cited in Ascione, F. R., 2005, Children and Animals: Exploring the Roots of Kindness and Cruelty, Purdue University Press, Indiana.
[9] Wells, D. L., 2009, ‘The effects of animals on human health and well-being,’ Journal of Social Issues, vol. 65, no. 3, pp. 523-543.
[10]Serpell, J., 1999, ‘Animals in children’s lives,’ Society and Animals, vol. 7, no. 2, pp. 87-94.
[11]Hall, 1904, cited in Ascione, F. R., 2005, Children and Animals: Exploring the Roots of Kindness and Cruelty, Purdue University Press, Indiana.
[12]Ascione, F. R., 2005, Children and Animals: Exploring the Roots of Kindness and Cruelty, Purdue University Press, Indiana.
[13]Merz-Perez, L. and Heide, K. M., 2004, Animal Cruelty: Pathway to Violence against People, AltaMira Press, Oxford.
[14]Flynn, C. P., 2011, ‘Examining the links between animal abuse and human violence,’ Crime, Law and Social Change, vol. 55, pp. 453-468.
[15] Quoted in Phillips, C., 2009, The Welfare of Animals: The Silent Majority, Springer Publishing, New York.
[16]Muller-Harris, D. L., 2011, ‘Animal violence court: a therapeutic jurisprudence-based problem-solving court for the adjudication of animal cruelty cases involving juvenile offenders and animal hoarders,’ Animal Law, vol. 17, pp. 313-336.
[17]Muller-Harris, D. L., 2011, ‘Animal violence court: a therapeutic jurisprudence-based problem-solving court for the adjudication of animal cruelty cases involving juvenile offenders and animal hoarders,’ Animal Law, vol. 17, pp. 313-336.
[18]Lockwood, R., 2005, ‘Cruelty toward cats: changing perspectives’. In D J Salem and A N Rowan (eds.), The State of Animals, Humane Society Press, Washington.
[19]Arluke, A., 2006, Just A Dog: Understanding Animal Cruelty and Ourselves, Temple University Press, Philadelphia.
[20]Muller-Harris, D. L., 2011, ‘Animal violence court: a therapeutic jurisprudence-based problem-solving court for the adjudication of animal cruelty cases involving juvenile offenders and animal hoarders,’ Animal Law, vol. 17, pp. 313-336.
[21]Arluke, A., 2006, Just A Dog: Understanding Animal Cruelty and Ourselves, Temple University Press, Philadelphia.
[22]Ascione, F. R., 2005, Children and Animals: Exploring the Roots of Kindness and Cruelty, Purdue University Press, Indiana.
[23]Arluke, A., 2006, Just A Dog: Understanding Animal Cruelty and Ourselves, Temple University Press, Philadelphia.
[24]Petersen, M. L. and Farrington, D. P., 2007, ‘Cruelty to animals and violence to people,’ Victims and Offenders, vol. 2, pp. 21-43.
[25] Beirne, P., 2004, ‘From animal abuse to interhuman violence? A critical review of the progression thesis,’ Society and Animals, vol. 12, no. 1, pp. 39-65.
[26]Leary, M. R., Kowalski, R. M., Smith, L. and Phillips, S., 2003, ‘Teasing, rejection, and violence: case studies of the school shootings,’ Aggressive Behaviour, vol. 29, pp. 202-214.
[27]Finkelstein, S. I., 2003, ‘Canary in a coal mine: the connection between animal abuse and human violence,’ Bellwether Magazine, vol. 1, no. 58, p. 10.
[28]Ascione, F. R., 2005, Children and Animals: Exploring the Roots of Kindness and Cruelty, Purdue University Press, Indiana.
[29] Beirne, P., 2004, ‘From animal abuse to interhuman violence? A critical review of the progression thesis,’ Society and Animals, vol. 12, no. 1, pp. 39-65.
[30]Killeen, A., 2014, ‘Animals and domestic violence,’ New Zealand Law Journal, March, pp. 71-75
[31]Ascione, F. R., Weber, C. V. and Wood, D. S., 1997, ‘The abuse of animals and domestic violence: a national survey of shelters for women who are battered,’ Society and Animals, vol. 5, no. 3.
[32]Australian Bureau of Statistics (ABS), 2014, ‘Australian social trends, 2014: emotional abuse’. Available at:http://www.abs.gov.au/ausstats/abs@.nsf/Lookup/4102.0main+features602014
[33]Killeen, A., 2014, ‘Animals and domestic violence,’ New Zealand Law Journal, March, pp. 71-75
[34]Tiplady, C.M. and Phillips, C. J. C., 2012, ‘Intimate partner violence and companion animal welfare,’ Australian Veterinary Journal, vol. 90, no. 1-2, pp. 48-53.
[35]Flynn, C. P., 2011, ‘Examining the links between animal abuse and human violence,’ Crime, Law and Social Change, vol. 55, pp. 453-468.
[36]Australian Veterinary Association (AVA), 2013, ‘Pet ownership statistics’. Available at: http://www.ava.com.au/news/media-centre/hot-topics-4
[37]RSPCA, 2016, ‘How many pets are there in Australia?’ Available at: http://kb.rspca.org.au/How-many-pets-are-there-in-Australia_58.html
[38]Ascione, F. R., 2005, Children and Animals: Exploring the Roots of Kindness and Cruelty, Purdue University Press, Indiana.
[39]Deery, S., 2012, ‘Conviction, but no jail, for three youths who tortured and killed baby kangaroo,’ Herald Sun. Available at:http://www.heraldsun.com.au/news/law-order/conviction-but-no-jail-for-three-youths-who-tortured-and-killed-baby-kangaroo/story-fnat7jnn-1226521086016
[40]Brice, C., 2016, ‘Tiny dolphin killed by crowd of beachgoers for selfies in Argentina,’ ABC News. Available at:http://www.abc.net.au/news/2016-02-18/baby-dolphin-killed-by-crowd-of-beachgoers-in-argentina/7182070
[41]Bowerman, M., 2015, ‘New ‘cat-punching’ page appears on Facebook,’ USA Today. Available at:http://www.usatoday.com/story/news/nation-now/2015/02/11/animal-cruelty-facebook-cat-punching-back/23228703/
[42]Ascione, F. R., 1993, ‘Children who are cruel to animals: a review of research and implications for developmental psychopathology,’ Anthrozoos, vol. 6, pp. 226-247.
[43]Boom, K., Ben-Ami, D.,Croft, D. B., Cushing, N. and Ramp, D., 2012, ‘ ‘Pest’ and resource: a legal history of Australia’s kangaroos,’ Animal Studies Journal, vol. 1, no. 1, pp. 17-40.
[44]Ascione, F. R., 2001, ‘Animal abuse and youth violence,’ US Department of Justice, Office of Juvenile Justice and Delinquency Prevention, Juvenile Justice Bulletin. Available at: https://www.ncjrs.gov/pdffiles1/ojjdp/188677.pdf
[45]Edgerton cited in Ascione, F. R., 2005, Children and Animals: Exploring the Roots of Kindness and Cruelty, Purdue University Press, Indiana.


 
Ky nang ban hang ky-nang-ban-hang
10 10 1125 (c) by
Google

Join us on Facebook

Please wait..5 SecondsCancel