chiêu thức bán hàng hiện đại

chiêu thức bán hàng

chia sẻ

TUỔI TÁC CỦA MẸ KHI SANH CÓ THỂ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TRIỆU CHỨNG TRẦM CẢM CỦA CON GÁI

Tuổi tác của mẹ khi sinh con
Theo một nghiên cứu được công bố bởi Hiệp hội Tâm lý Hoa kỳ, con gái của các bà mẹ sinh con khi 30 tuổi trở lên thường có nhiều khả năng biểu hiện các triệu chứng trầm cảm vào đầu tuổi trưởng thành.

“Nghiên cứu này cho rằng mẹ sinh con khi tuổi cao có liên hệ với những triệu chứng trầm cảm, lo âu và stress ở con gái vào đầu tuổi trưởng thánh” Jessica Tearne, nghiên cứu sinh tại ĐH Tây Australia và là chủ nhiệm nghiên cứu cho biết.

Tearne cùng các cộng sự đã phân tích dữ liệu từ Nghiên cứu Nhóm chứng Thai sản Tây Úc. Từ 1989-1991, các phụ nữ mang thai được tuyển lựa vào nghiên cứu này, họ được yêu cầu cung cấp các thông tin về nhân chủng và tâm lý. Sau đó, con của họ sẽ thực hiện các đánh giá tâm lý xuyên suốt nhiều độ tuổi khác nhau suốt 23 năm.

Trong nghiên cứu này, các nhà khoa học đã tìm hiểu mức độ nhiều triệu chứng khác nhau về trầm cảm, lo âu và stress do 1200 người con tự đánh giá vào độ tuổi 20. Sau đó, nhóm nghiên cứu so sánh dữ liệu với độ tuổi của cha và mẹ khi sinh trẻ. Kết quả cho thấy, con gái có mẹ khi sinh con nằm vào 30-34 tuổi thường có mức độ stress, trầm cảm và lo âu cao hơn so với những trẻ có mẹ lúc sinh dưới 30.

Chỉ có 5% các bà mẹ trong nghiên cứu sinh con dưới 20 tuổi, không có tác động nào được tìm thấy trong nhóm này. Tuổi của cha vào lúc sinh con cũng không đem lại mối liên hệ nào, con trai cũng cho thấy xu hướng tương tự.

Dù nguyên nhân chính xác dẫn đến tương quan này vẫn chưa rõ ràng, Tearne cho rằng không nhất thiết phụ thuộc vào yếu tố sinh học.
  
Tearne cho biết, “Một giả thuyết cho rằng chính khoảng cách lớn về tuổi tác giữa mẹ và con có thể tạo ra những khó khăn cả hai gặp phải” “Có thể cách biệt 30 năm trở lên giũa mẹ và con gái sẽ đưa đến những sai biệt về hệ thống giá trị, tạo ra căng thẳng trong mối quan hệ, đưa đến stress, lo lắng và buồn bã nơi trẻ, đặc biệt trong giai đoạn chuyển tiếp vào đầu tuổi trưởng thành.”

Một giải thích khả dĩ khác có thể đến từ việc phụ nữ sinh con sau 30 tuổi sẽ bước vào tuổi 50 vào thời điểm khảo sát. Lúc này, họ có nhiều khả năng gặp phải các vấn đề về sức khỏe liên quan đến tuổi tác, đưa đến việc con cái có mức độ triệu chứng cao hơn. Các nghiên cứu khác còn cho thấy con gái bị tác động bởi sức khỏe của mẹ nhiều hơn con trai. Điều này lý giải cho việc tại sao tác động chỉ xuất hiện nơi con gái.

“Một điều quan trọng mà chúng ta cần ghi nhớ là nghiên cứu chỉ tìm hiểu về các triệu chứng chứ không phải là chẩn đoán lâm sàng” TS Monique Robinson, ĐH Tây Úc, một tác giả khác của nghiên cứu cho biết. “Nó cho thấy con cái của những bà mẹ cao tuổi thường có nguy cơ gặp phải nhiều triệu chứng về trầm cảm, lo âu và stress hơn nhưng không nhất thiết rằng họ sẽ gặp phải các chẩn đoán rối loạn tâm thần nhiều hơn.”

Bài báo:
“Older Maternal Age is Associated with Depression, Anxiety and Stress Symptoms in Young Adult Female Offspring,” by Jessica Tearne, BA, Monique Robinson, PhD, Peter Jacoby, MSc, Karina Allen, PhD, Nadia Cunningham, BA, and Neil McLean, MA, The University of Western Australia, and Jianghong Li, PhD, WZB Berlin Social Research Center, Journal of Abnormal Psychology, published online Nov. 16, 2015.

Link nghiên cứu
Link bài báo



5 ĐIỀU KHIẾN BẠN HỐI TIẾC NHẤT VỀ SỰ NGHIỆP CỦA MÌNH

Lựa chọn hướng đi cho sự nghiệp
Daniel Gulati 14/12/2012
Bài viết là ý kiến cá nhân dựa của tác giả Daniel Gulati dựa trên nghiên cứu trường hợp qua 30 đối tượng cùng số liệu từ các nghiên cứu khác.

Bạn tiếc nuối điều gì nhất trong suốt sự nghiệp của mình?
Đây là câu hỏi mở đầu phần hỏi đáp từ một thính giả đã rất chăm chú lắng nghe bài nói chuyện của tôi về kinh doanh và cải tiến tại ĐH Thiết kế Parsons. Tôi nhanh chóng trả lời, hi vọng rằng các câu hỏi sau sẽ đi vào chủ đề chính của buổi nói chuyện. Tuy vậy, xét trên số lượng những câu hỏi kế tiếp cùng khối lượng email sau đó gửi về cho tôi, có vẻ như đề tài về việc hối tiếc trong sự nghiệp giành được sự quan tâm từ rất nhiều người.

Kể từ buổi chiều hôm đó, tôi đã theo đuổi nhiệm vụ trả lời một cách có hệ thống cho câu hỏi tuy khá kì lạ nhưng rất xác đáng rằng chính xác chúng ta sẽ làm gì nếu có thể quay ngược lại sự nghiệp của mình. Tôi hi vọng bằng cách tìm hiểu những điều khiến người khác cảm thấy thất vọng về nghề nghiệp của mình, chúng ta có thể tối đa hóa khả năng giảm thiểu những ân hận của bản thân trong tương lai.

Với mục tiêu đó, tôi đã phỏng vấn 30 nhà chuyên môn từ 28 đến 58 tuổi và hỏi mỗi người về những điều họ hối tiếc nhất trong suốt sự nghiệp của mình cho đến hiện tại. Các thành viên trong nhóm rất đa dạng: từ giám đốc quản lý 39 tuổi của một ngân hàng đầu tư lớn, một nhiếp ảnh gia hành nghê tự do thất bại, một doanh nhân triệu phú cho tới một CEO trong danh sách Fortune 500. Sự thất vọng không chừa một ai; bất kể ngành nghề mọi người theo đuổi, vai trò họ đảm nhận, kể cả khi họ thất bại hay thành công, câu trả lời của họ thường luôn có 5 điểm thống nhất nổi bật. Có vẻ như hệ quả của những quyết định nghề nghiệp sai lầm cùng những kì vọng không được đáp ứng được tất cả các nhóm tuổi trải nghiệm ngang nhau.
Sau đây là 5 hối tiếc lớn nhất của họ:

1. Tôi ước rằng mình đã không nhận công việc đó vì tiền.
Cho đến hiện giờ, hối tiếc lớn nhất đến từ những người nhận công việc lương cao nhưng rốt cuộc lại cảm thấy thất vọng về nghề nghiệp của mình. Một nghiên cứu kinh điển cho thấy lương bổng chỉ là yếu tố “duy trì”, không phải là yếu tố thúc đẩy. Tuy nhiên, điều bất ngờ chính là cảm giác vô phương trợ giúp mà cá nhân phải đối mặt. Một nhân viên ngân hàng đầu tư than thở, “Tôi ngày nào cũng nghĩ đến lúc thôi việc, nhưng tôi lại có quá nhiều cam kết.” Một tư vấn viên lại nói rằng, “Tôi muốn mình hết căng thẳng, nhưng tôi lại chẳng biết mình làm tốt được chuyện gì khác.” Như vậy có vẻ như cụm từ đeo gông dát vàng chẳng hề hài hước chút nào.

2. Tôi mong mình đã nghĩ việc sớm hơn.
Gần như tương đồng với nhau, tất cả những người đã bỏ công việc cũ để chạy theo đam mê của mình đều mong bản thân đã nghỉ việc sớm hơn. Những thời gian biểu liên tục trong các tập đoàn lớn, hình ảnh về truyền thông đại chúng cùng mong muốn tích lũy lợi lộc là ba lý do chính khiến 80% những người không thỏa mãn với công việc không dám nghi việc khi họ đối diện với thực tế. Một giám đốc bán hàng cho biết, “Những năm tháng đó đáng lẽ tôi phải giành cho những thứ thật sự quan trọng với mình. Bạn không bao giờ lấy lại được khoản thời gian đó.”

3. Tôi ước gì mình đã tự kinh doanh riêng. 
Khi tình hình tài chính của cá nhân đang có chiều hướng tích cực, nhiều người tôi khảo sát lại mong muốn mình tự kiểm soát cuộc sống của bản thân nhiều hơn. Giải pháp là gì? Trở thành ông chủ thay vì đi làm thuê cho công ty của người khác. Tuy nhiên, theo Artful Dodger, muốn thôi là chưa đủ. Một nghiên cứu mới đây cho thấy 70% nhân viên mong muốn công việc hiện tại sẽ là phương tiện để bắt đầu công việc kinh doanh riêng trong tương lai, tuy vậy chỉ có 15% cho biết họ đã chuẩn bị sẵn để tự đầu tư. Ngay cả những CEO trong danh sách Fortune 500 cũng mong muốn được tự do kinh doanh. Một người thừa nhận: “Hối tiếc lớn nhất của tôi là việc tôi chỉ là một nhà ‘muốn kinh doanh’. Tôi chưa bao giờ có khả năng tự khẳng định mình bằng cách bắt đầu từ con số không.”

4. Tôi mong mình đã sử dụng thời gian khi còn đi học hiệu quả hơn.
86% sinh viên hiện tại xem việc đihọc đại học là một đầu tư xứng đáng. Điều này phản ánh sự phổ biến của đại học ngày nay: Trong cuốn Passion & Purpose, tôi cùng đồng tác giả đã nhận ra rằng 54% các bạn thuộc thế hệ hiện tại có bằng đại học, so với 36% của thế hệ trước. Tuy nhiều sinh viên đang học đại học, không ít bạn trong số đó lại muốn nhanh chóng “hi sinh” thời gian học vào những công việc sinh lời đầu tiên. Một nhà nghiên cứu sinh học nhớ lại thời đại học của mình là “vội vã một cách nực cười để kết thúc những năm tự do tuyệt vời và đầy niềm vui của cuộc đời.” Sau khi có gia đình và dính vào nhiều khoản nợ nần, rất nhiều người không thể tìm đâu ra thời gian để tiếp tục đi học lên cao hơn nhằm thay đổi sự nghiệp của mình. 

5. Tôi ước gì mình đã nghe theo trực giác nghề nghiệp của bản thân. 
Nhiều người hối tiếc về những cơ hội nghề nghiệp, hay theo lời một nhân viên mô tả, “những thời khác bây giờ hoặc không bao giờ”. Vào năm 2005, một nhân viên ngân hàng đầu tư đã được đề nghị dẫn đầu một nhóm nhỏ làm việc tại một nước Châu Mỹ La tinh mà hiện nay đang rất phát triển, Tuy biết đây có thể là một cơ hội thăng tiến nhưng anh ta vẫn từ chối vì nghi ngại. Trớ trêu thay, người đủ can đảm để nhận trách nhiệm sau đó đã được thăng chức lên trưởng bộ phận và rồi là CEO. Nhiều lý thuyết tâm lý mới đây đã liên kết vai trò của việc nhận ra những thời điểm thay đổi quan trọng tuy khó lường nhưng đáng giá trên với việc có được những bước tiến nhảy vọt trong nghề nghiệp của nhân viên.
Thay vì đè nén, những hối tiếc này cần được đặt tại ví trí quan trọng trong ký ức của bạn. Nghiên cứu cho thấy (PDF) hối tiếc có thể là chất xúc tác mạnh mẽ cho việc thay đổi. Tâm lý gia nổi tiếng Neal Roese từng nói rằng “Nhìn chung, hối tiếc là một cảm xúc có ích”. Thậm chí nó còn có thể truyền cảm hứng cho chúng ta. Nhưng điều đó đồng nghĩa với việc ta cần tiếp xúc và trân trọng nỗi thất vọng, hiểu rằng mình có khả năng trải nghiệm hối tiếc một cách sâu sắc đồng thời học hỏi những mặt tích cực từ sự hối tiếc để định hình nên thành công trong tương lai của chúng ta.

Dịch: Hành lang Tâm lý

LÀM CÁCH NÀO GIÁO VIÊN ĐẶC BIỆT CÓ THỂ HỖ TRỢ TRẺ GẶP KHÓ KHĂN?

Tâm lý trong giáo dục đặc biệt
Hiện nay, khoảng 10% học sinh phải đối mặt với các rối loạn sức khỏe tâm thần. Một trong những rối loạn phổ biến nhất là rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) và hội chứng Asperger, bên cạnh đó, những rối loạn khác như trầm cảm, rối loạn lưỡng cực và tâm thần phân liệt vẫn có thể ảnh hưởng đến trẻ.

Những trẻ cần dến sự trợ giúp, đặc biệt những trẻ khiếm khuyết về học tập hay thể lý, có thể phải đối mặt với nguy cơ bệnh lý tâm thần cao hơn vì những thách thức đặc biệt mà các em gặp phải trong môi trường học đường và trong cuộc sống. Bản thân các rối loạn tâm lý có thể được xem như là những nhu cầu đặc biệt, chúng có thể ảnh hưởng đến khả năng học tập của trẻ trong lớp.

Các giáo viên giáo dục đặc biệt và những nhân viên trường học khác có thể hỗ trợ thúc đẩy sức khỏe tinh thần cho học sinh. Tuy nhiên, cần phải hiểu rằng nâng cao sức khỏe tinh thần không chỉ dừng lại ở việc làm biến mất bệnh tật; nó còn bao gồm việc học cách tự quản lý bản thân và phát triển những chiến lược đối phó khỏe mạnh cho trẻ. Thật vậy, với nhiều trẻ, rối loạn tâm lý chỉ có thể được quản lý chứ không thể chữa lành – nhưng giáo viên có khả năng đem lại những kỹ năng sống cần thiết để trẻ có thể đạt đến tình trạng sức khỏe tinh thần tối đa của mình. Giáo viên có thể giúp hình thành các tác nhân bảo vệ giúp trẻ phòng tránh các bệnh lý tinh thần cũng như minh họa khả năng tự điều hòa để giúp trẻ học cách kiểm soát những triệu chứng.
Đem lại cho trẻ cảm giác “Thuộc về”
Khi bạn được đào tạo trở thành một giáo viên giáo dục đặc biệt, bạn sẽ biết rằng những những trẻ có nhu cầu đặc biệt thường gặp khó khăn với cảm xúc rằng mình “khác thường” với những bạn bè xung quanh. Trẻ có thể sẽ bị cô lập khỏi những hoạt động vui chơi của bạn bè và cảm thấy bị tách ly khỏi xã hội. Đó là lý do việc khuyến khích một văn hóa “thuộc về” trong trường lớp là rất quan trọng.

Mọi người thuộc mọi lứa tuổi sẽ ít có khả năng mắc phải các rối loạn tâm lý hơn nếu họ cảm thấy mình thuộc về một cộng đồng nào đó. Bạn có thể thúc đẩy cảm giác thuộc về thông qua việc chào đón trẻ bằng cách gọi tên trẻ mỗi khi trẻ đến trường hay khi gặp các bạn trong hành lang. Bạn cũng có thể tạo một bản tin lớp học nơi trẻ có quyền chia sẻ những tin vui với nhau, như mới nhận nuôi một chú chó hay em của trẻ vừa ra đời. Khuyến khích cả lớp cùng nỗ lực là một cách để giúp trẻ có nhu cầu đặc biệt cảm thấy mình được hòa nhập với tập thể.
Khen ngợi trẻ vì tất cả những thành công
Những trẻ có nhu cầu đặc biệt thường sẽ cố gắng nếu những thành công của các em được công nhận, và những thành tựu này không nhất thiết chỉ gói gọn trong việc học tập. Bạn cũng cần khuyến khích trẻ mỗi khi trẻ có những hành vi thể hiện ý chí hay sự trưởng thành:
§  Ngồi yên và bình tĩnh mỗi khi cơn lo âu xuất hiện
§  Duy trì khả năng tự kiểm soát khi giận dữ
§  Thể hiện sự trắc ẩn với người xung quanh
§  Giơ tay xin lượt chứ không tự tiện phát biểu
Đừng vạch ra những giới hạn cho các tình huống mà trẻ chỉ cần làm đúng thì sẽ được khen. Nếu bạn cần phải nói chuyện với trẻ có những vấn đề về hành vi, hãy bắt đầu bằng cách bàn luận những đặc điểm và hành vi tích cực của trẻ để trẻ cảm thấy mình được yêu mến và chấp nhận.
Chỉ cho trẻ cách đương đầu với những cảm xúc khó khăn
Trẻ nhỏ chưa biết cách để ứng phó với những cảm xúc khó khăn, đó là lý do vì sao các em thường phải thể hiện ra bên ngoài. Hãy giành thời gian định kỳ để nói chuyện với học trò của bạn về những chiến lược ứng phó với cảm xúc, ví dụ như các bài tập thở hay những kỹ thuật khác. Hãy nói với trẻ về những hoạt động khác trẻ có thể tham gia ngoài giờ học để giải tỏa stress hay để càmt hấy thoải mái hơn mỗi khi có một ngày tồi tệ.

Những trẻ gặp khó khăn với các vấn đề sức khỏe tinh thần hay những khiếm khuyết khác thường rất vất vả để xử lý những cảm xúc như lo âu, sợ hãi, giận dữ hay buồn bã. Là một nhà giáo dục đặc biệt, bạn cần quan sát thật kỹ các em để nhận ra những dấu hiệu cho thấy những cảm xúc trên đang bắt đầu lấn át các bạn. Trẻ có thể sẽ bất ngờ bắt đầu bực tức, cúi đầu xuống hay bắt đầu nói chuyện quá lớn tiếng. Khi bạn nhận ra những dấu hiệu này, hãy hỏi trẻm “Con đang cảm thấy như thế nào?” Nếu trẻ đang gặp khó khăn, thay vì tập trung lo lắng về điều gì khiến trẻ căng thẳng, tốt nhất chúng ta nên giúp trẻ giải tỏa và hỗ trợ trẻ tập trung vào việc giữ bình tĩnh.

Những trẻ có nhu cầu đặc biệt thường có nguy cơ gặp phải các bệnh lý tinh thần cao hơn bạn bè, tuy nhiên giáo viên có để làm nhiều cách để tạo ra một môi trường tích cực cho trẻ. Đừng chỉ dừng ở việc giảm thiểu hay loại bỏ những triệu chứng; hãy dạy trẻ kỹ năng ứng phó với cảm xúc nhằm quản lý những triệu chứng đang có và ngăn ngừa những biểu hiện mới trong tương lai. Đó là một trong những khác biệt quan trọng nhất bạn có thể thực hiện cho học sinh của mình, trong lớp học và trong suốt cuộc đời của trẻ.


Người dịch: Hành lang Tâm lý

TÂM TRÍ CỦA KẺ KHỦNG BỐ

Nguyên nhân khủng bố

Điều gì lại khiến một người tự sát và kéo theo những người vô tội?
Câu hỏi này một lần nữa lại trở nên nhức nhối sau những vụ đánh bom liều chết ở Afghanistan, vụ nổ bom xe tại một sân chơi đông đúc tại Pakistan, một người Nigeria định cho nổ bom máy bay ở Detroit (2010), tấn công khủng bố tại Tunisie và mới đây là tại Paris làm 158 người thiệt mạng (2015).
Cho tới gần đây, ngành khoa học tâm lý về khủng bố phần lớn vẫn còn nằm trên lý thuyết. Việc tìm kiếm chủ thể để nghiên cứu không phải là chuyện đơn giản. Tuy nhiên, càng ngày càng có nhiều tiếp cận với các thành phần khủng bố và một ngành khoa học sơ khai đã dần thành hình.
Nhiều thành phần khủng bố trong quá khư nay đã lên tiếng một cách công khai về những trải nghiệm của bản thân. Hàng chục ngàn thành phần khủng bố đang tham gia các chương trình “giải thể- cực đoan” (de-radicalization) trên khắp thế giới, họ đang được phỏng vấn, tham vấn và là đối tượng để đánh giá tâm lý, điều này mang lại cơ hội thu thập các dữ liệu thực tế về nhóm đối tượng trên.
Tuyên truyền khủng bố đang tràn ngập trên Internet và nhiều người đồng thuận với chủ nghĩa cực đoan đang trong trạng thái sẵn sàng tiếp nhận. Có cả một mạng lưới các kênh truyền hình cáp khủng bố được các nhóm cực đoan thực hiện, đồng thời các nhà nghiên cứu cũng tiếp cận những lá thư hay các đoạn phim “tuyệt mệnh” do những kẻ đánh bom liều chết để lại cùng những bảng ghi chép trong các phiên tòa.
Các nghiên cứu mới này có những hạn chế của nó. Định nghĩa về cực đoan – mà đa phần là các tay súng Hồi giáo – rất khó để xác định. Các nhà nghiên cứu cũng có những bất đồng trong việc nhận định con đường dẫn đến cực đoan. Một số người tin rằng nguyên nhân là do tôn giáo, một số lại quy về chính trị và quyền lực, trong khi số khác lại đi theo các tác động do tâm lý và xã hội.
Tuy động lực khủng bố có thể vô cùng khác biệt nhưng một số các đặc tính đã được xác định như sau.
1. CON ĐƯỜNG DẪN TỚI BẠO LỰC
Dù không có hồ sơ của những thành phần khủng bố, đa phần các nhà khoa học đều đồng thuận về các tác nhân nguy cơ dẫn đến hiện tượng này. Họ sử dụng thuật ngữ “sự chuyển giao thế hệ” trong niềm tin của những kẻ cực đoan do GS tâm thần học, tâm lý học chính trị và thông tin quốc tế Jerrold M. Post, thuộc ĐH George Washington tạo ra. Hiện tượng này bắt đầu từ tuổi thơ ấu; một cảm giác “nạn nhân hóa” và tách biệt; niềm tin rằng chính những vi phạm đạo đức của kẻ thù sẽ biện minh cho bạo lực với mục tiêu hướng đến “tình trạng đạo đức tối ưu hơn”; niềm tin rằng sắc tộc, tôn giáo hay nhóm quốc gia của thành phần khủng bố là “đặc biệt” và bị đe dọa “tuyệt diệt”, đồng thời họ cũng thiếu quyền lực về mặt chính trị để đem lại những thay đổi bằng con đường phi bạo lực.
Nghiên cứu còn cho thấy một vài kẻ khủng bố có tư tưởng tội phạm và từng sống như tội phạm trước đây. Nghịch lý ở chỗ, theo một nghiên cứu mới, chính lo âu về cái chết lại đóng một vai trò quan trọng trong việc “nhồi sọ” những tên khủng bố và các kẻ đánh bom liều chết – nỗi sợ vô thức về cái chết, về việc không để lại di sản cho hậu thế.
Nhiều nhà nghiên cứu đồng ý rằng dù ít có khi nào xảy ra đột ngột nhưng vẫn có những yếu tố kích thích làm đẩy nhanh tiến trình cực đoan hóa – ví dụ, việc một người bạn hay họ hàng bị giết chết do chính trị.
Ervin Staub, giáo sư tâm lý danh dự thuộc ĐH Massachusetts, người vừa hoàn thành một cuốn sách về động lực của khủng bố và xung đột, đã xác định 3 dạng khủng bố chủ yếu. “Nhóm Lý tưởng” đồng nhất với việc một số nhóm sắc tộc chịu đau khổ. “Nhóm Phản ứng” phản ứng lại những kinh nghiệm đã xảy ra với nhóm của mình (Như việc họ lớn lên trong một trại tị nạn hay nhìn thấy họ hàng bị sát hại; họ cũng có thể phản ứng lại một sự kiện sang chấn không liên quan trong quá khứ, như bị lạm dụng.) Cuối cùng, “Nhóm Vô hồn” là những người lang bạt, bị cô lập hay lưu đày, họ tìm kiếm mục đích cuộc đời nơi các nhóm cực đoan. TS Post cho rằng nhóm cuối cùng là “mảnh đất màu mỡ” cho những kẻ tuyển mộ khủng bố.
Clark McCauley, GS tâm lý học tại ĐH Bryn Mawr, cho rằng có 4 quỹ đạo chính: “cách mạng”, những người hành động xuyên suốt với cùng một lý tưởng; “lang thang”, những người tham gia hết nhóm cực đoan này đến nhóm khủng bố khác, bất kể lý tưởng của các nhóm đó là gì; “cải đạo”, những người bất chợt tham gia phòng trào cực đoan; và “tuân thủ”, những người tham gia vì sự thuyết phục của bạn bè hay họ hàng.
2. CUỘC SỐNG TRONG NHÓM
Thay vì cá nhân, nhân diện tập thể mới là chủ đề thu hút nhiều sự chú ý nhất trong những năm qua. Chỉ trong những trường hợp hiếm hoi, như kẻ đánh bom đơn độc, Ted Kaczynski, và tên bắn tỉa Washington, John Allen Muhammad, mới tự mình hành động mà không dính líu tới một nhóm. (Kẻ đánh bom đơn độc được chẩn đoán có tâm thần phân iệt dạng hoang tưởng. Trong khi đa phần các nhóm khủng bố, theo các chuyên gia,  thường loại bỏ những kẻ bất ổn về tâm thần; họ thậm chí còn ưu tiên lựa chọn những kẻ có tiếng tăm để thực hiện những nhiệm vụ liều chết. Chúng cho rằng việc đưa những kẻ có nhiều thứ để mất thực hiện nhiệm vụ sẽ làm tăng tính tin cậy của lý tưởng chúng theo đuổi.) Đa phần các nhà nghiên cứu đồng ý rằng lý giải nguyên nhân của hành động cực đoan, dù bằng giáo điều tôn giáo hay thế tục, đều được phát triển và lan rộng thông qua sự vận động của nhóm.
Internet đóng một vai trò quan trọng trong việc gia tăng con số các nhóm thánh chiến, nhiều nhóm là nhánh của những mạng lưới lớn hơn hay được kích động bởi Al Qaeda. TS. Post cho rằng Internet đã khơi mào cho điều mà ông gọi là “cộng đồng ảo thù hận”
Marc Sageman, bác sĩ tâm thần, cựu nhân viên CIA và là học giả về Al Qaeda, cho rằng lý thuyết về nhân cách là không đủ để giải thích cho chủ nghĩa khủng bố - chỉ có hiểu được tác động của nhóm lên cá nhân mới giúp chúng ta nhận ra nguyên nhân của hiện tượng này.
Một lý thuyết cho rằng khi cá nhân tham gia nhóm, họ thường dễ đưa ra các quyết định liều lĩnh hơn vì họ cho rằng mối nguy sẽ được san sẻ và vì thế, sợ hãi sẽ giảm thiểu. Khi nhóm trở nên cực đoan hơn, cá nhân cũng sẽ biến đổi tương tự, họ sẽ cảm nhận sức ép xã hội kinh khủng khiến họ phải đồng ý với quyết định của nhóm.
Đồng thời, nhóm có thể đem lại tình đồng chí và cảm giác có ý nghĩa. Nhóm có thể trở nên vô cùng gắn kết dưới sức ép của sự đe dọa và cô lập. Lập luận chống khủng bố như Cựu tổng thống George W. Bush khi ông mô tả chiến lượng chống Al Qaeda — “hun khói chúng, khiến chúng chạy thoát thân và mang chúng ra công lý” – thường chỉ khiến cho nhóm thêm gắn kết mà thôi. Xâm lược và leo thang các chiến dịch chống khủng bố cũng vậy, những điều này chỉ khiến những kẻ ủng hộ tiếp tục tham gia vào nhóm. Đa phần các nhóm khủng bố nhanh chóng sụp đổ vì xung đột nội bộ, theo các chuyên gia. Tuy nhiên những nhóm hoạt động ngầm, tách biệt khỏi các nhóm cạnh tranh và khỏi các ý kiến từ bên ngoài thuồng phát triển bền vững nhất. Dưới tác động của một lãnh đạo lôi cuốn, danh tính và tinh thần của cá nhân sẽ được thay thế bằng các đặc tính của nhóm.
3. NHỮNG CÂU HỎI VỀ ĐẠO ĐỨC
Vở kịch “The Just” của Albert Camys thường được trích dẫn để lý giải cho phức cảm đạo đức của khủng bố. Vở kịch thuật lại câu chuyện về vụ ám sát một bá tước người Nga do một nhóm cách mạng thực hiện năm 1905. Tay ám sát định giết bá tước khi ông đang ngồi trên xe ngựa một mình. Tuy nhiên, cháu trai và cháu gái của bá tước lần này lại cùng đi với ông. Tên ám sát trở về và tìm cách giết ông khi ông ở một mình. Điều này được John Horgan, giám đốc Trung tâm Quốc tế Nghiên cưú về Khủng bố tại ĐH Bang Pennsylvania, gọi là “giới hạn nội tại” của khủng bố.
Trong một cuốn sách xuất bản năm 2009, TS Horgan thu thập danh tính 29 cựu khủng bố, nhiều người đã thoát ly khỏi các nhóm như Quận Đội Cộng Hòa Ireland (IRA) hay Al Qeada. Ông nhận thấy khủng bố phải tin rằng bạo lực chống lại kẻ thù hoàn toàn không có gì trái với đạo đức, tuy nhiên, họ cũng tự có những giới hạn, những điều mà họ không nhận ra cho tới khi đã nhúng qua sâu vào nhóm.
Một số tên khủng bố chấp nhận việc giết các quân nhân đang không tham gia chiến trận nhưng lại ghê tởm việc giết hại động vật. Một số chỉ thấy thoải mái khi con số thương vong hạn chế. Khi một kẻ hướng dẫn đánh bom của IRA được yêu cầu giết một viên cảnh sát có mẹ là góa phụ, hắn cho biết hắn có cảm giác mình “phải trả giá cho hành động đó”. Hắn bắt đầu lẩn trốn khi IRA giết một cảnh sát đang mang thai và hắn nghe cấp trên của mình nói “Chúng ta vừa giết 1 được 2.”
Một số kẻ khủng bố được TS Horgan phỏng vấn cho biết chỉ tỉnh ngộ khi những thành viên khác trong nhóm bắt đầu trộm cướp các ngân hàng. Chính việc trộm cướp chứ không phải giết chóc mới khiến họ khó chịu.
David C. Rapoport, giáo sư danh dự về khoa học chính trị tại ĐH California, Los Angeles, và là chuyên gia kì cựu về khủng bố và đạo đức, cho rằng chung quy tất cả đều là tính toán về đạo đức, điều này được dẫn từ kết luận cho rằng kẻ thù của những kẻ khủng bố đã “làm điều gì đó rất tệ hại, rất kinh khủng đến độ họ phải chịu hình phạt.” Chính sự dao động về đạo đức gây chia rẻ và khiến nhóm giải tán.
Nếu mục tiêu của bạn là tạo ra một thế giới mà đa phần sẽ người vô tội (họ là những thành viên thuộc nhóm bạn chống đối), nhưng bạn phải giết họ để đạt được mục tiêu ấu, về cơ bản, bạn đang tự ủy hoại giấc mơ của mình, TS Rapoport chia sẻ. Dù vậy, ông cho rằng nhiều kẻ khủng bố tin rằng “con đường dẫn tới thiên đàng là đi qua hỏa ngục.” Và để giết người hay vi phạm bất cứ chuẩn mực đạo đức cá nhân nào của họ, họ phải tin rằng, một cách tổng thể, họ sẽ đạt được một tình trạng đạo đức ưu việt hơn cho nhóm hay cho xã hội
4. NHỮNG KẺ ĐÁNH BOM LIỀU CHẾT
Một khi đã là khủng bố thì rất khó để hoàn lương. Điều này đặc biệt đúng với những kẻ đánh bom tự sát trong tương lai. Một khi đã được giao nhiệm vụ tử thần thì họ bắt đầu được xem như là “những kẻ tử đạo sống”. Rút lui sẽ kéo theo vô vàn tủi hổ và nhục nhã.
Fathali M Moghaddam, giáo sư tâm lý ĐH Georgetown, trong nỗ lực tìm hiểu tiến trình cực đoan hóa, đã mô tả “nấc thang thành khủng bố” như sau: Các bậc sẽ hẹp dần khi lên tới đỉnh, với mỗi bước đi bạn sẽ còn khó quay lại. Cũng giống việc giết chóc, có nhều cách diễn dịch khác nhau trong Đạo Hồi về giáo lý Hồi giáo về việc tự sát. Các học giả tôn giáo cho rằng Kinh Koran cấm tự sát. Tuy nhiên nhiều nhóm Hồi Giáo cho rằng bằng cách xếp những kẻ đánh bom vào hàng tử vì đạo, hành động tự hoại của họ sẽ trở thành hợp lý vì đó là một dạng tự hi sinh và vì đó là cái chết đầy vinh quang trong trận chiến chống lại những kẻ ngoại đạo. Nhiều nghiên cứu mới cũng quy trách nhiệm hiện tượng trên cho những động cơ khác mang tính cá nhân và tạm thời hơn, như mong muốn được vinh danh, hi sinh cho lãnh đạo, trả thù, áp lực đồng đẳng (lần đầu được ghi nhận như một động lực nơi hàng ngũ phi công Nhật thực hiện các chuyến bay tự sát), đồng thời các nghiên cứu cũng ủng hộ giả thuyết cho rằng nhóm khủng bố thường hứa hẹn đãi ngộ đặc biệt cho gia đình của những kẻ tử vì đạo sau khi họ chết.
Arie W. Kruglanski, giáo sư tâm lý học thuộc ĐH Maryland, College Park, chuyên nghiên cứu các đoạn băng tuyệt mệnh của những kẻ đánh bom liều chết đồng thời phỏng vấn mẹ của họ, cho rằng động lực bao trùm của những kẻ đánh bom là mong muốn tìm kiếm ý nghĩa của bản thân, ước mong tuyệt vọng về một cuộc sống có ý nghĩa dường như chỉ thành hiện thực khi họ đến với cái chết.
5. TỪ BỎ KHỦNG BỐ
TS Horgan đã dẫn đầu nhiều nghiên cứu về hiện tượng ly gián – những thành phần khủng bố từ bỏ tổ chức. Ông kết luận rằng những kẻ khủng bố có thể từ bỏ bạo lực mà không cần phải từ bỏ quan điểm cực đoan của mình, ông cũng nhận thấy một số rút lui sau khi bắt đầu tỉnh ngộ trước thực tế cuộc sống trong những phòng trào khủng bố.
TS Horgan cho biết, những lý do mà thành phần khủng bố quay lưng lại với cuộc sống cũ giúp đem lại cái nhìn sâu sắc về cách thức họ suy nghĩ, bên cạnh đó, niềm tin của họ cũng dễ thay đổi hơn so với lúc trước.
Những người được tuyển mộ thường được hứa hẹn về những chuyên phiêu lưu đầy hứng khởi và hào nhoáng cùng với cơ hội thay đổi thế giới. Nhưng những gì họ nhận thấy chỉ là các nhóm khủng bố đầy chia rẽ với những ganh ghét và tranh đua cá nhân. Đồng thời, cuộc sống thì vô cùng buồn chán. Cuối cùng bạn chỉ ngồi yên, uống trà trong nơi trú ấn. Với những người duy trì được sự hiện diện bên ngoài nhóm, áp lực về một cuộc sống hai mặt có thể khiến họ kiệt sức. Bằng nhiều cách, khi họ già đi, họ sẽ nhận ra những ưu tiên của mình dần thay đổi – ví dụ, họ bắt đầu muốn lập gia đình. Họ sẽ nhận ra những mục tiêu của nhóm dường như khó có thể đạt được và khi nhóm dần trở nên cực đoan hơn, họ sẽ đạt tới giới hạn đạo đức của bản thân.
Một trường hợp minh chứng là cựu thành viên Al Qaeda đã nói với Horgan rằng khi anh ta tới Afghanistan để chiến đấu, anh nhận ra rằng trẻ em và người già bị ép phải cầm súng. “Hình ảnh về một phong trào toàn hảo, vô song và cao quý nhận lấy cái tát đầu tiên”, TS Horgan cho biết.


Nguồn: http://www.nytimes.com/2010/01/10/weekinreview/10kershaw.html?_r=0

Những bài khác cùng chủ đề:
KHỦNG BỐ DƯỚI GÓC NHÌN TÂM LÝ HỌC – PHẦN 1: CẠM BẪY TỪ SỰ SỢ HÃI
http://hanhlangtamly.blogspot.com/2015/01/khung-bo-duoi-goc-nhin-tam-ly-hoc-1.html

KHỦNG BỐ DƯỚI GÓC NHÌN TÂM LÝ HỌC - PHẦN 2: VAI TRÒ CỦA VĂN HÓA VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP

http://hanhlangtamly.blogspot.com/2015/01/khung-bo-duoi-goc-nhin-tam-ly-hoc-2.html

DẬY SỚM ĐI HỌC LÀM GIẢM CHẤT LƯỢNG GIẤC NGỦ VÀ HOẠT ĐỘNG TRONG NGÀY CỦA TRẺ VỊ THÀNH NIÊN

Tác hại việc dậy sớm đi học
Một nghiên cứu mới vừa cho thấy việc bắt đầu vào học muộn buổi sáng có liên hệ với tâm trạng và giấc ngủ được cải thiện nơi trẻ vị thành niên.
Nghiên cứu được đăng trên Journal of Developmental & Behavioral Pediatrics cho thấy chỉ cần bắt đầu học muộn hơn 25 phút cũng đủ mang lại hiệu quả cho các học sinh đang theo học một trường nội trú (Boergers et al., 2013).
Các nhà nghiên cứu nhận thấy nhờ can thiệp này mà số học sinh ngủ hơn 8 tiếng một ngày tăng từ 18% lên 44%.
Thêm vào đó, các học sinh còn giảm hiện tương thiếu ngủ trong ngày, ít trầm cảm và sử dụng ít caffeine hơn.
Không ngạc nhiên khi những học sinh có cải thiện đáng kể nhất là những bạn gặp gặp nhiều rối loạn về giấc ngủ nhất.
Tác giả đứng đầu dự án, Julie Boergers, một chuyên gia về giấc ngủ, cho biết:
“Rối loạn giấc ngủ là một bệnh dịch đối với thanh thiếu niên, nó có khả năng tác động nghiêm trọng đế sức khỏe thể lý và tinh thần, sự an toàn và khả năng học tập của trẻ.Việc phải đi học sớm góp phần tạo ra vấn đề này. Đa phần các bạn thiếu niên phải trải qua sự thay đổi về mặt sinh học khiến chu trình giấc ngủ của các bạn trở nên trễ hơn trước. Điều này khiến cho việc dậy sớm đi học trở nên đặc biệt khó khăn. Trong nghiên cứu này, chúng tôi tìm hiểu liệu việc dời thời gian bắt đầu học với thời tượng ngắn và khá khiêm tốn có giúp thay đổi cách thức ngủ, thiếu tỉnh tảo, tâm trạng và việc sử dụng caffeine của các bạn hay không.
Lý do mà đa phần các bạn thiếu niên gặp rối loạn về giấc ngủ là vì các bạn cần ngủ nhiều hơn người trưởng thành, tuy vậy đa phần các bạn lại không thực hiện được điều đó.
Không giống người lớn, thiếu niên cần ngủ từ 8.5 đến 9.5 tiếng mỗi đêm.

Các trường trung học tại Mỹ thường bắt đầu học lúc 8 giờ sáng trong hi đa số các bạn khó lòn đi ngủ từ 11 giờ tối. Đơn giản là các bạn không đủ thời gian ngủ vào mỗi đêm.

Julie Boergers nói thêm:
“Kết quả nghiên cứu bổ sung cho một lượng lớn các kết quả cho thấy những lợi ích về sức khỏe quan trọng mà việc thời gian học bắt đầu trể hơn mang lại cho trẻ vị thành niên. Nếu chúng ta có thể điểu chỉnh thời khóa biểu của trường phù hợp hơn với nhịp sinh học và nhu cầu về giấc ngủ của trẻ vị thành niên, các em sẽ trở nên chú ý, vui tươi, sẵn sàng học và không cần phải phụ thuộc vào caffeine hay nước tăng lực để tỉnh táo trong lớp.”
Đây chắc chắn không phải là nghiên cứu đầu tiên cho thấy những hệ quả tiêu cực mà việc dậy sớm đi học mang lại.
Các nghiên cứu khác cho thấy mối liên hệ giữa dậy sớm đi học và sụt giảm về thành tích học tập, tâm trạng tiêu cực và thậm chí nhiều tai nạn giao thông hơn.

Min chứng có vẻ đã rõ ràng nhưng việc bắt đầu học muộn hơn có vẻ vẫn còn đang gây ra nhiều tranh cãi.

Một trong những ý kiến phản đối thườn thấy là thời gian bắt đầu học trễ sẽ làm giảm thời gian giành cho các hoạt động ngoại khóa.

Dù vậy, không có bằng chứng nào chứng minh cho ý kiến trên trong nghiên cứu này, các bạn học sinh vẫn tham gia thể thao cùng các hoạt động khác với thời lượng tương tự như trước.
Ngoài ra, thay vì trở nên kiệt sức vào buổi chiều, nghiên cứu còn cho thấy các bạn có thểm nhiều năng lượng để hoàn thành bài tập của mình.


http://www.spring.org.uk/2014/01/later-school-start-times-improve-sleep-and-daytime-functioning-in-adolescents.php

LIỆU CHÚNG TA CÓ KHẢ NĂNG THAY ĐỔI NHÂN CÁCH THEO Ý MUỐN CỦA MÌNH?

Thay đổi tính cách
Dưới đây là 3 điểm về nhân cách mà mọi người mong muốn thay đổi nhất:
§  87% người được khảo sát muốn hướng ngoại nhiều hơn.
§  89% người được khảo sát muốn dễ chịu hơn.
§  97% người được khảo sát muốn tận tâm hơn (Hudson & Fraley, 2014).

Nghiên cứu sử dụng trắc nghiệm nhân cách “Big Five” – bao gồm các yếu tố: sự tận tâm (conscientiousness), tâm lý bất ổn (neuroticism), tính dễ chịu (agreeableness), hướng ngoại (extraversion) và tính cởi mở (openness)

Không có gì ngạc nhiên khi những nét tính cách trên, dù đúng dù sai, là những nét được xã hội đánh giá cao.
Xã hội thường “muốn” mọi người dễ chịu, quãng giao và chăm chỉ.
Vậy liệu việc thay đổi nhân cách là có khả thi hay không?
Nói một cách ngắn gọn, chúng ta có thể thay đổi (một chút).
Một nghiên cứu vừa được công bố trên Journal of Personality and Social Psychology đã khảo sát mong muốn thay đổi nhân cách của những người tham gia (Hudson & Fraley, 2015).
Những người tham gia nghiên cứu được yêu cầu cho biết mục tiêu thay đổi của họ và tham gia trắc nghiệm đánh giá nhân cách hàng tuần.
Nhiều người mong muốn bản thân trở nên dễ thương, giao tiếp xã hội và tận tâm hơn.
Và sau 16 tuần nghiên cứu, nhiều người cũng đạt được những tiến triển khiêm tốn về mục tiêu của mình.

Tuy nhiên, sẽ rất khó cho mọi người nếu mục tiêu của họ quá rộng.
Ví dụ, tự nhủ rằng “tôi sẽ trở nên quãng giao hơn” thường sẽ không hiệu quả.
Nếu muốn tạo ra thay đổi, bạn cần lên kế hoạch rất cụ thể cách thức hành xử trong từng tình huống.
Ví dụ, nếu bạn muốn giao tiếp xã hội tốt hơn, bạn nên tự nhủ: “Nếu tôi thấy một người quen, tôi sẽ đến và chào họ.”
Tác giả nghiên cứu kết luận:
“Các nghiên cứu này cho thấy con người có khả năng thay đổi những nét nhân cách mà họ tự đánh giá về bản thân thông qua những cách thế tự họ nghĩ ra, đồng thời các nghiên cứu cũng thể hiện những bước đi đầu tiên nhằm thông hiểu các tiến trình cho phép con người thực hiện điều đó.”
Tiến trình thay đổi cũng rất thú vị.
Nghiên cứu cho thấy những hành vi mới mà nghiệm thể mong muốn học được thường dẫn tới những thay đổi trong cách họ nhận diện bản thân.

Nói cách khác: chúng ta giả vờ cho đến khi đạt điều ta mong muốn. Rồi sau đó ta thay đổi cả cách chúng ta nhìn nhận bản thân.
Những thay đổi về hình ảnh bản thân sau đó lại tiếp tục thúc đẩy những hành vi phù hợp với thay đổi nhân cách mà ta hướng tới.
Điều này tạo ra một vòng tròn lặp lại.
Dù những thay đổi vẫn còn khá nhỏ, song là do nghiên cứu chỉ được tiến hành trong vài tháng.
Liệu nếu việc thay đổi nhân cách tiến hành trong nhiều năm trời thì bạn có thể hình dung kết quả sẽ như thế nào?
Các bạn có thể tự do chia sẻ và sử dụng bài viết (cũng như bài dịch) này với mục đích phi thương mại với điều kiện ghi rõ nguồn là từ Psy Blog (và nguồn dịch là Hành lang Tâm lý). Việc sử dụng bài viết và bản dịch này trên mạng cần phải có đường dẫn về trang bài viết của Psy Blog http://www.spring.org.uk/2015/06/tested-whether-you-can-change-your-personality-at-will.php và đường dẫn bài dịch http://hanhlangtamly.blogspot.com/2015/11/lam-sao-thay-doi-nhan-cach.html .Những ngoại lệ khác với mục đích thương mại cần có phép bằng văn bản của Psy Blog và thông báo cho người dịch



 
Ky nang ban hang ky-nang-ban-hang
10 10 1125 (c) by
Google

Join us on Facebook

Please wait..5 SecondsCancel