chiêu thức bán hàng hiện đại

chiêu thức bán hàng

chia sẻ

KÝ ỨC NÀO LÚC NHỎ SẼ ĐỊNH HÌNH CUỘC SỐNG CHÚNG TA KHI TRƯỞNG THÀNH?

Hành vi của cha mẹ ảnh hưởng đến tương lai con cái
Agent Illustrateur/Ikon Images

19/12/2014 MAANVI SINGH
Đa phần chúng ta không nhớ gì về hai hay ba năm đầu đời – nhưng những kinh nghiệm đầu tiên đó lại gắn chặt với chúng ta trong nhiều năm và kéo dài ảnh hưởng lên tận tuổi trưởng thành.

Tuy nhiên mức độ và cách thức tác động vẫn là câu hỏi mà các nhà nghiên cứu đang đi tìm câu trả lời. Dưới đây là hai nghiên cứu tìm hiểu về cách thức hành vi cha mẹ trong những năm đầu của trẻ ảnh hưởng đến cuộc sống sau này của chúng ra sao, đồng thời xem xét sự khác biệt về tính khí của trẻ đóng vai trò như thế nào.

Nghiên cứu đầu tiên được xuất bản trên Child Development cho thấy cách thức cha mẹ nâng đỡ về mặt cảm xúc trong 3,5 năm đầu của con có tác động lên giáo dục, đời sống xã hội và các mối quan hệ tình cảm của “trẻ” kéo dài đến tận 20 hay 30 năm sau đó.
Trẻ nhỏ được nuôi dạy trong những môi trường gia đình quan tâm và nâng đỡ, khi lớn lên, thường thực hiện các trắc nghiệm được chuẩn hóa với kết quả tốt hơn. Các đối tượng này cũng thường đạt được những bằng cấp cao hơn khi trưởng thành, đồng thời hòa hợp với bạn bè cũng như thỏa mãn hơn về những mối quan hệ tình cảm của mình.   

Lee Raby, tâm lý gia và nhà nghiên cứu sau tiến sĩ tại ĐH Delaware – người đứng đầu nghiên cứu, cho biết: “Có vẻ như ít nhất là trong những năm đầu đời, vai trò của cha mẹ là giao tiếp với trẻ và cho các em biết rằng, ‘Cha mẹ luôn ở đây vì con những khi con cần, mỗi khi con buồn bã. Còn khi con không cần, cha mẹ là những người luôn cổ vũ, động viên con.”

Raby sử dụng dữ liệu được thu thập từ 243 người tham gia Nghiên cứu chiều dài Minnesota về Nguy cơ. Tất cả các nghiệm thể đều được theo dõi từ khi sinh ra cho tới năm 32 tuổi. Raby cho biết, “Các nhà nghiên cứu đôi khi đến nhà của nghiệm thể. Một số lần khác họ đưa cả trẻ và cha mẹ đến trường ĐH và quan sát cách hai bên tương tác với nhau.”

Tất nhiên là hành vi của cha mẹ trong những năm đầu chỉ là một trong những yếu tố tác động, nó không nhất thiết là yếu tố duy nhất đưa đến những thuận lợi mà trẻ có được như trong nghiên cứu. Trong quá trình tính toán kết quả, các nhà nghiên cứu còn tính đến tình trạng kinh tế xã hội và môi trường mà nghiệm thể sinh sống.

Cuối cùng, nhóm phát hiện khoảng 10% thành công về mặt học thuật của một cá nhân có liên hệ đến chất lượng cuộc sống gia đình vào lúc nghiệm thể 3 tuổi. Những kinh nghiệm trong quá trình lớn lên, các yếu tố di truyền và thậm chí cả may mắn chịu trách nhiệm cho 90% còn lại. Yếu tố tâm lý ở trẻ cũng là một tác nhân trong đó.

Nghiên cứu thứ hai phát hiện những trải nghiệm đầu đời của trẻ giúp tiên đoán khả năng phát triển rối loạn ám sợ xã hội vào tuổi vị thành niên – điều này xảy ra chỉ với những trẻ đặc biệt nhạy cảm hay thiếu sự tin tưởng khi còn nhỏ.

Trong nghiên cứu này, các nhà khoa học từ ĐH Maryland đã quan sát cách thức 165 trẻ tương tác với cha mẹ của mình. Khi tách chúng ra khỏi phụ huynh, một số trẻ sẽ trở nên khó chịu nhưng nhanh chóng trở lại bình thường khi được gặp lại cha mẹ. Một số trẻ khác lại gặp nhiều khó khăn hơn trong việc tin tưởng phụ huynh sau khi bị chia tách trong thời gian ngắn, các bé này không thể bình tĩnh ngay cả khi đã được ở bên cha mẹ.

Những trẻ nhạy cảm quá mức ở trên thường cho biết cảm thấy lo âu khi phải giao tiếp và tham dự tiệc tùng khi các bạn bước vào tuổi thiếu niên.

Tất cả những điều này có ý nghĩa gì? Đầu tiên, theo Jay Belsky, giáo sư về phát triển con người tại ĐH California – người không tham gia vào cả hai nghiên cứu, nó cho thấy sự phát triển của con người là rất phức tạp. Chúng ta biết rằng những trải nghiệm đầu tiên thường ảnh hưởng đến tất cả mọi người theo một chừng mực nào đó. Và chúng ta cũng biết rằng, tùy vào sự khác biệt của yếu tố tâm lý cá nhân mà một vài người sẽ trở nên nhạy cảm với các yếu tố môi trường hơn những người khác.

Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta không thể phục hồi sau những kinh nghiệm đau thương thời thơ ấu. Belsky cho biết “Với một số người, trị liệu hay thiền định có thể có hiệu quả,” “Điều này khá lý thú vì hiện nay đang có những bằng chứng cho thấy những trẻ phải chịu đựng những điều kiện tiêu cực cũng là những trẻ thật sự phát triển dưới những hoàn cảnh tích cực hơn.”



TẠI SAO TAI TIẾNG (SCANDAL) CHƯA CHẮC LÀ KHÔNG TỐT CHO KINH DOANH


Giảng viên Tài chính tại ĐH Sussex

HSBC gần đây vừa trải qua một loạt các tai tiếng, nhưng có vẻ điều này lại chẳng ảnh hưởng nhiều đến cổ phiếu của công ty. Liệu chúng ta có cần phải ngạc nhiên vì điều này? Nghiên cứu của tôi (tác giả) về các vụ tai tiếng trong các tập đoàn cho thấy tai tiếng tuy có thể làm tổn hại ngắn hạn nhưng lại không có tác động dài hạn đến doanh nghiệp.

Những nghi vấn đặt ra cho chi nhánh HSBC ở Geneva dường như có những ảnh hưởng ngắn hạn đến công ty. Luôn có những nhà đầu tư đánh giá cao tính đạo đức và chắc chắn họ sẽ “trừng phạt” ngân hàng vì những báo cáo về việc rửa tiền hay hỗ trợ các khách hàng giàu có trốn thuế. Sau đó, hậu quả của những cáo buộc trên sẽ đem đến những tổn hại về uy tín khi các văn phòng của công ty bị điều tra, đồng thời kéo theo những khoản phạt khi ngân hàng bị kết tội. Doanh nghiệp có thể bị buộc phải ngưng một số hoạt động kinh doanh, từ chối một vài khách hàng, bán đi vài tài sản và tái cấu trúc tổ chức của mình. Tất cả những điều trên đều rất tốn kém và sẽ tác động tiêu cực đến nền tảng tài sản của ngân hàng.

Tuy nhiên, HSBC lại là ngân hàng “quá lớn để bị đánh đổ”. Việc đóng cửa sẽ mang lại những hậu quả khôn lường. Vì vậy trên phương diện dài hạn, tai tiếng này không thể tác động đến HSBC. Trên thực tế, nghiên cứu thực hiện về ảnh hưởng dài hạn của tai tiếng trong các tập đoàn lên giá cổ phiếu cho thấy chúng thậm chí còn có thể có tác động tích cực trong một vài trường hợp.

Các tai tiếng trong quá khứ
Một nghiên cứu vừa được công bố trên Journal of Applied Economics đã tìm hiểu tác động của các hành động không phù hợp, hành vi sai trái hay thất bại trên quy mô lớn của các CEO lên hiệu quả trên thị trường chứng khoán. Tác giả cùng các đồng nghiệp tại Mỹ đã nghiên cứu 80 vụ tai tiếng từ năm 1993 đến năm 2011, bao gồm các hành vi phạm tội tài chính và phi tài chính – vi phạm hợp đồng, hối lộ, xung đột quyền lợi, giả mạo, sửa giá cùn các tội phạm kinh tế khác, bên cạnh đó còn các tai tiếng cá nhân như việc CEO ngoại tình, khai man CV cùng những trường hợp quấy rối tình dục.

Trong khi tai tiếng hiện đang diễn ra của HSBC không tập trung vào CEO nhưng lại vào những hoạt động quy mô lớn hơn của ngân hàng, vẫn tồn tại những tác động tương đương mà tai tiếng mang lại cho việc kinh doanh.

Điều tra của nhóm nghiên cứu về tai tiếng liên quan đến các CEO cho thấy các nhà đầu tư thường phản ứng tiêu cực trước các thông tin về tai tiếng của tập đoàn. Giá cổ phiếu sẽ rớt khoảng từ 6.5% đến 9.5% trong vòng 1 tháng sau khi sai phạm được công khai, điều này làm tổn hại chung tới các cổ đông trung bình lên tới 1.9 tỉ USD với mỗi công ty bị tai tiếng.
Rõ ràng là các nhà đầu tư đánh giá cao đạo đức và xem trọng tiêu chí này. Vì thế, khi có điều gì trái đạo đức bị phát giác, công ty sẽ mất uy tín và cổ phiếu sẽ rớt giá ngay lập tức tương ứng với tổn hại về giá trị nêu trên

Tuy vậy, may mắn cho các nhà đầu tư là tổn hại chỉ gói gọn trong thời gian ngắn. Một thời gian sau vụ tai tiếng, giá những cổ phiếu của các doanh nghiệp nhóm khảo sát đều trở lại ngang bằng với hoạt động của những công ty tương tự mà không dinh vào tai tiếng.
Dù sao thì cần nhiều hơn là một vụ tai tiếng để làm sụp đổ một tổ chức. Các cá nhân phi đạo đức thì có thể thay thế, hoạt động trái đạo đức thì có thể thay đổi. Các công ty vẫn có thể tiến lên sau khi các nhân vật trên bị loại trừ và chứng minh rằng doanh nghiệp có các biện pháp bảo đảm nhằm tránh những điều tương tự tiếp tục xảy ra trong tương lai.

Hành động Sửa sai
Nghiên cứu  của chúng tôi cho thấy, sau tai tiếng nhiều năm, hiệu năng hoạt động của nhiều doanh nghiệp vướng phải tai tiếng còn trở nên tốt hơn so với các công ty tương tự không bị tai tiếng ảnh hưởng. Các hành động sửa sai của công ty có vẻ như còn mang lại lợi ích cho nhà đầu tư về lâu về dài.

Các công ty có thể phản ứng lại với tai tiếng bằng cách thực hiện các biện pháp phòng trừ. HSBC đã bắt đầu được điều này. Ngay khi các báo cáo về những sai phạm trong việc tư vấn và quản lý tài sản bị phanh phui, HSBC đã nhanh chóng thông báo công khai rằng mình đã “cải tổ hoàn toàn hoạt động tư vấn và quản lý tài sản”, đồng thời thực hiện những sửa đổi nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn mới khắt khe hơn.

Những kiểu trả lời này giúp xoa dịu các nhà đầu tư và giúp tránh việc cổ phiếu công ty tiếp tục rớt giá, đảm bảo rằng họ có thể trở lại cuộc đua với những đối thủ của mình. Đó là những gì chúng tôi tìm thấy trong nghiên cứu của mình. 3 năm sau các vụ tai tiếng, hoạt động cổ phiếu của các doanh nghiệp sẽ đuổi kịp các công ty không bị ảnh hưởng.

Nhìn chung, tai tiếng của các tập đoàn có thể đóng vai trò như chất xúc tác nhằm tạo ra các thay đổi giúp mang lại lợi ích cho nhà đầu tư. Chúng tôi nhận ra rằng, tất cả 80 công ty trong nghiên cứu, từ Apple, Hewlett Packard, IBM, JP Morgan cho tới Yahoo, đều cho thấy những cải thiện đáng kể trong hiệu suất hoạt động nhiều năm sau khi các tai tiếng xảy ra.



TUỔI GIÀ VÀ TÌNH YÊU: NGHIÊN CỨU VỀ ĐỜI SỐNG TÌNH DỤC Ở NGƯỜI CAO TUỔI

ĐH MANCHESTER 31/01/2015



Theo một nghiên cứu của ĐH Manchester cùng Trung tâm Nghiên cứu Xã hôi NatCen, người cao tuổi vẫn tiếp tục tận hưởng đời sống tình dục ngay cả khi họ bảy mươi hay tám mươi tuổi.

Theo dữ liệu từ Nghiên cứu Chiều dài về Tuổi tác ở Anh (ELSA), hơn một nửa (54%) đàn ông và gần một phần ba (31%) phụ nữ trên 70 tuổi cho biết họ vẫn tích cực hoạt động tình dục, với một phần ba trong số cả đàn ông và phụ nữ kể trên vẫn thường xuyên ân ái – ít nhất 2 lần mỗi tháng.

Nghiên cứu với tên gọi Sức khỏe Tình dục và Hạnh phúc nơi đàn ông và phụ nữ cao tuổi ở Anh Quốc do TS David Lee – nhà nghiên cứu thuộc Trường Khoa học xã hội, ĐH Manchester - đứng đầu, được xuất bản trên tạp chí học thuật, Archives of Sexual Behavior, Mỹ.

Đây là nghiên cứu đầu tiên về sức khỏe tình dục thuộc phân loại này bao gồm những người trên 80 tuổi. Nghiên cứu này giúp hé mở một bức tranh chi tiết về đời sống tình dục ở đàn ông và phụ nữ cao tuổi tại Anh. Kết quả mô tả một lượng người cao tuổi đáng kể vẫn hoạt động tình dục dù tuổi đã cao.

Trái ngược với nhầm lẫn thường thấy, nghiên cứu cho biết sức khỏe nhìn chung cùng các tác nhân mâu thuẫn đời sống gắn chặt với việc suy giảm hoạt động và chức năng tình dục, thay vì chỉ đơn thuần do gia tăng tuổi tác.

Với hơn 7000 người trả lời bảng hỏi, rất ít (ít hơn 3%) trong số đó từ chối trả lời các câu hỏi trực tiếp đề cập đến các hoạt động và vấn đề tình dục.

TS. Lee nhận định, “Đây là nghiên cứu mẫu đại diện quốc gia đầu tiên bao gồm những người trên 80 tuổi khi hỏi đàn ông và phụ nữ cao tuổi tại Anh về sức khỏe tình dục của họ”. “Chúng tôi hi vọng kết quả nghiên cứu sẽ giúp cải thiện sức khỏe công cộng bằng cách chống lại các định kiến và hiểu nhầm về tính dục khi cao tuổi, đồng thời đem lại cho người cao tuổi những dữ kiện tham khảo mà qua đó họ có thể đối chiếu những trải nghiệm và kì vọng của bản thân.”

“Nghiên cứu đang diễn ra của chúng tôi cũng nhấn mạnh tính đa dạng trong tính dục của người cao tuổi, việc cố gắng gán ghép các thuật ngữ “trẻ” về sức khỏe tình dục vào người cao tuổi là đơn giản hóa quá mức và thậm chí vô dụng.”

“Việc các nhà chuyên môn về sức khỏe cần làm việc trên vấn đề này và trở nên cởi mở hơn trong việc bàn luận sức khỏe tình dục với người cao tuổi là rất cần thiết – chúng ta không thể đơn giản chỉ xem như đây là một vấn đề bên lề.”

Các vấn đề xuất hiện nhiều nhất nơi phụ nữ hoạt động tình dục có liên quan tới kích thích tình dục (32%) và đạt cực khoái (27%) trong khi ở đàn ông là khó khăn trong việc cương dương (39%).

Các vấn đề sức khỏe mãn tính và tự đánh giá sức khỏe yếu có vẻ có tác động tiêu cực rõ ràng lên sức khỏe tình dục ở đàn ông nhiều hơn so với phụ nữ.  

Đàn ông lo lắng về hoạt động và chức năng tình dục nhiều hơn so với phụ nữ, đồng thời khi càng cao tuổi, những quan ngại này có xu hướng trở nên phổ biến hơn. Những phụ nữ hoạt động tình dục nhiều thường ít thất vọng với đời sống tình dục nhìn chung hơn đàn ông, đồng thời họ cũng cho biết mức độ không thỏa mãn sẽ giảm dần khi độ tuổi tăng lên.

Nghiên cứu cũng phát hiện nhiều người ở độ tuổi thất tuần và bát tuần vẫn thể hiện tình thương yêu với người bạn đời của minh, 31% đàn ông và 20% phụ nữ cho biết vẫn thường xuyên ôm hôn và âu yếm nhau. Trong số những người cho biết có hoạt động tình dục trong vòng 3 tháng qua, chỉ 1% đàn ông và 10% phụ nữ nói rằng mình cảm thấy bị ép buộc phải quan hệ tình dục.

Caroline Abrahams, Chủ tịch Từ thiện Cao tuổi ở Anh Quốc cho biết: “Sự thật đây là lần đầu tiên những người trên 80 tuổi được liệt kê vào nghiên cứu dạng này nhấn mạnh việc những nhu cầu về sức khỏe công cộng của người cao tuổi, kể cả về sức khỏe tình dục, đã bị bỏ qua hay xem nhẹ thường xuyên đến mức nào.

“Với những người cao tuổi, việc những người cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe về tình dục hiểu được những nhu cầu của người cao tuổi trong cả khung cảnh lâm sàng và khi cung cấp thông tin và khuyến nghị là rất quan trọng. Những kết quả này cần được sử dụng nhằm nâng cao các khuyến nghị và thông tin về sức khỏe tình dục cho người cao tuổi.”




HỘI CHỨNG KIỆT SỨC NGHỀ NGHIỆP (BURNOUT) TÁC ĐỘNG ĐẾN ĐÀN ÔNG VÀ PHỤ NỮ KHÁC NHAU NHƯ THẾ NÀO?

Burnout - kiệt sức nghề nghiệp
Tác giả: Paula Davis-Laack, J.D, M.A.P.P, chuyên gia quản lý stress và cân bằng cuộc sống - công việc, cung cấp chiến lược để giúp con người khỏe mạnh và cân bằng hơn.

Tôi (tác giả) đã viết và chia sẻ nhiều về kinh nghiệm của mình với hội chứng kiệt sức nghề nghiệp (burnout) trong năm qua, tôi đã đề cập đến tình trạng căng thẳng tập trung các vấn đề thể chất, tâm lý và hành vi mà tôi đã trải qua trong những năm cuối hành nghề luật. Gần đây, tôi nghiên cứu về chứng kiệt sức nghề nghiệp cùng giới tính như là một phần chuẩn bị cho việc lên những ý tưởng quan trọng trong tương lai, tuy nhiên tôi vẫn chưa chắc chắn về những điều mình sẽ phát hiện. Tôi không nhìn nhận chứng kiệt sức nghề nghiệp là vấn đề của riêng đàn ông hay phụ nữ - đây là vấn đề mà bất kỳ người lao động nào cũng phải cân nhắc; thế nhưng, tôi rất ngạc nhiên khi đọc một số nghiên cứu có đề cập trực tiếp đến những khác biệt giới tính về vấn đề sức khỏe này. Vậy, phải chăng giữa nam và nữ trải nghiệm chứng kiệt sức nghề nghiệp này theo những cách khác nhau? Liệu có những mô hình đặc trưng nào ở nam và nữ dẫn đến vấn đề này?

Nghiên cứu đầu tiên tôi tham khảo đã đánh giá mối tương quan về kiệt sức nghề nghiệp giữa các bác sĩ nam và nữ (đặc biệt là các bác sĩ đa khoa) sử dụng 3 yếu tố đánh giá chứng kiệt sức theo thang Dấu hiệu Kiệt sức Nghề nghiệp Maslach (Maslach Burnout Inventory) nhằm kiểm định các phương diện sau đây của chứng kiệt sức nghề nghiệp: (1)
·         Kiệt quệ: Cảm thấy kiệt sức về mặt cảm xúc, trống rỗng và cạn kiệt năng lượng.
·        Tính tiêu cực: Có thái độ tiêu cực đối với khách hàng và đồng nghiệp, cảm thấy dễ cáu kỉnh và rút lui khỏi các hoạt động, giao tiếp xã hội mà họ từng thích thú.
·        Thiếu hiệu quả: Suy giảm thành quả làm việc cá nhân, giảm sút trông thấy trong khả năng hay hiệu suất, tiêu hao năng lượng vào công việc mà không đem lại kết quả.

Nghiên cứu này tìm ra rằng đàn ông và phụ nữ xử lý các phương diện trên rất khác nhau. Phụ nữ trải nghiệm tình trạng kiệt quệ trước, theo sau đó mới là tính tiêu cực và rồi đến mặt thiếu hiệu quả - các bác sĩ nữ nghĩ rằng mình không phải một người chăm sóc sức khỏe hiệu quả nên họ ngừng làm việc. Đàn ông, trái lại, có khuynh hướng trải qua cảm giác tiêu cực trước, sau đó mới là trạng thái kiệt quệ. Điều thú vị là nhiều nam giới tham gia nghiên cứu vẫn tiếp tục làm việc bởi vì họ không cảm nhận được các triệu chứng trong hai giai đoạn đầu tiên đã ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe mà họ mang lại. Các bác sĩ nam không trải qua giai đoạn thiếu hiệu quả vì họ vẫn nghĩ rằng bản thân làm việc hiệu quả.

Nghiên cứu thứ hai kiểm định mối tương quan giữa kiệt sức nghề nghiệp, trầm cảm, lo âu và tính dễ kích động, các yếu tố nguy cơ dẫn đến bệnh tim mạch. Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng ở phụ nữ, có tồn tại mối tương quan giữa chứng kiệt sức nghề nghiệp và sự kích động (đo lường bằng các dấu sinh học protein - protein biomarkers), song ở nam giới lại không có mối tương quan tương tự. Thú vị nằm ở chỗ khi chính trầm cảm, chứ không phải kiệt sức nghề nghiệp hay lo âu tạo nên mức độ kích động cao tương đương nơi nam giới.

Nghiên cứu thứ ba chỉ đơn giản tham khảo các nghiên cứu khác cho thấy có sự kết hợp giữa việc đòi hỏi cao trong công việc và khả năng kiểm soát kém (mức độ tự chủ thấp). (2)  Một nghiên cứu khác cho thấy mối liên hệ trên (đòi hỏi cao trong công việc và khả năng quyết định kém) làm gia tăng bệnh tim mạch ở đàn ông, điều này cho thấy tổ hợp này gây hại cho sức khỏe ở cả đàn ông lẫn phụ nữ.

Tuy số nghiên cứu tập trung vào giới và hội chứng kiệt sức nghề nghiệp còn hạn chế, ý nghĩa của chúng lại rất quan trọng. Nếu chúng ta có thể chỉ ra cách mà đàn ông và phụ nữ trải nghiệm hội chứng kiệt sức, những chuyên gia hỗ trợ nhân sự có thể biết cách ngăn ngừa hội chứng này phù hợp hơn, nhanh hơn và với nhiều cách can thiệp cụ thể hơn.

Nguồn: Paula Davis-Laack (2014), "How Burnout Impacts Men & Women Differently", Psychology Today, Published on April 29, 2014.
Dịch: Ngọc Anh

(1) Leiter, M.P., & Maslach, C. (2005). Banishing burnout: Six strategies for improving your relationship with work. San Francisco, CA: Jossey-Bass. See also, Maslach, C., & Leiter, M.P. (1997). The truth about burnout: How organizations cause personal stress and what to do about it. San Francisco, CA: Jossey-Bass.
(2) See also Norlund, S. et al. (2010). Burnout, working conditions and gender. BMC Public Health 10, 326; and Rafferty, Y., Friend, R., & Landsbergis, P.A. (2001). The Association between job skill discretion, decision authority and burnout. Work Stress, 15, 73-85; and Schaufeli, W.B., & Bakker, A.B. (2004). Job demands, job resources, and their relationship with burnout and engagement: A multi-sample study. Journal of Organizational Behavior, 25, 293-315.


10 NGHIÊN CỨU THÚ VỊ VỀ HẠNH PHÚC

Hạnh phúc

Hạnh phúc “nằm” ở đâu trong cơ thể của chúng ta? Nó ảnh hưởng đến di truyền của chúng ta như thế nào? Tại sao nó lại thay đổi theo tuổi tác? … cùng nhiều thông tin thú vị khác về hạnh phúc sẽ được tóm tắt trong 10 nghiên cứu dưới đây.

1. Hạnh phúc kích hoạt toàn bộ cơ thể
Không giống suy nghĩ, cảm xúc không chỉ nằm trong đầu óc, chúng còn gắn liền với cảm giác cơ thể.
Nhờ vào một nghiên cứu mới mà lần đầu tiên, chúng ta có được bản đồ về liên hệ giữa cảm xúc và cảm giác cơ thể.
Các nhà nghiên cứu ở Phần Lan đã kích thích những cảm xúc khác nhau của 701 người tham gia nghiên cứu và cho họ tô màu vào sơ đồ cơ thể những khu vực họ cảm thấy tăng hoặc giảm hoạt động.
Sơ đồ cơ thể về cảm xúc

Màu vàng cho thấy mức hoạt động cao nhất, sau đó là đến đỏ. Màu đen thể hiện trung tính trong khi xanh và xanh nhạt thể hiện mức độ hoạt động thấp và rất thấp.
Thú vị ở chỗ hạnh phúc là cảm xúc duy nhất khiến cơ thể tràn ngập hoạt động, bao gồm cả chân, có thể ám chỉ việc hạnh phúc khiến chúng ta sẵn sàng lao vào hành động hay khiến ta muốn “nhảy cẫng lên”.

2. Hạnh phúc làm thay đổi mã di truyền
Hạnh phúc “đúng kiểu” không chỉ khiến bạn cảm thấy thoải mái, nó còn mang lại những ích lợi cho cơ thể, tác động đến cả mã di truyền của chúng ta.
Một nghiên cứu đã tìm hiểu mô hình biểu hiện gene trong các tế bào chịu trách nhiệm cho việc chống trả các bệnh truyền nhiễm và bảo vệ cơ thể trước những ngoại chất.
Kết quả cho thấy nhóm người cảm giác mức độ hạnh phúc “ý nghĩa” cao có biểu hiện gene kháng thể và kháng virus mạnh hơn.
Như vậy, dù hạnh phúc “hưởng thụ” (hedonic happiness: cảm giác hài lòng bạn có khi trực tiếp thỏa mãn bản thân, như mua sắm hay một bữa ăn ngon) hay hạnh phúc “ý nghĩa” (eudomonic happiness: cảm giác hài lòng khi bạn hướng đến một mục tiêu cao quý, khi đi tìm ý nghĩa cuộc sống) đều khiến chúng ta hạnh phúc, thì chỉ có hạnh phúc “ý nghĩa” mới mang lại lợi ích cho chúng ta ở mức độ di truyền.

3. Chúng ta hạnh phúc hơn khi sống tử tế
Chuyện gì xảy ra với hạnh phúc của con người khi họ phải đối mặt với khủng hoảng kinh tế? Chúng ta phản ứng với thất nghiệp, khó khăn, thất vọng và cảm giác bất lực trước cơn ác mộng triền miên này ra sao?
Câu trả lời: Sự đoàn kết.
Dữ liệu từ 255 khu vực đô thị trên khắp nước Mỹ cho thấy những cộng đồng tập hợp lại với nhau – bằng cách làm những việc tử tế nhỏ nhặt cho nhau như tình nguyện hay trợ giúp láng giềng – sẽ trở nên hạnh phúc hơn.
Gắn kết xã hội có tác dụng phòng ngừa: chúng ta hạnh phúc hơn khi biết làm việc tử tế.

4. Hãy cư xử như người hướng ngoại – ngay cả khi bạn là người hướng nội.
Cư xử như người hướng ngoại – ngay cả khi bạn là người hướng nội – giúp chúng ta cảm thấy hạnh phúc hơn.
Kết luận này đến từ khảo sát được thực hiện trên hàng trăm người ở Mỹ, Venezuela, Philippines, Trung Quốc và Nhật Bản.
Những người tham gia cho biết họ cảm thấy cảm xúc tích cực nhiều hơn trong các sự kiện thường nhật khi họ hành động hay cảm nhận nghiêng về hướng ngoại.
Trước đó, các nghiệm thể được yêu cầu hành xử theo hướng cởi mở trong vòng 10 phút và sau đó ghi nhận việc đó khiến họ cảm thấy như thế nào.
Ngay cả với những người hướng nội – những người đặc biệt thích các hoạt động làm việc cá nhân – cư xử theo cách hướng ngoại cũng mang lại những tác động tích cực cho hạnh phúc.

5. Hạnh phúc lây lan trên mạng
Một nghiên cứu vừa kết luận, những cảm xúc được thể hiện trên mạng – cả tích cực và tiêu cực – đều có khả năng lây lan.
Một trong những nghiên cứu lớn nhất về Facebook đã tìm hiểu nội dung cảm xúc của một tỉ bài đăng trong vòng 2 năm. Phần mềm đã được sử dụng nhằm giúp phân tích nội dung cảm xúc của mỗi bài đăng.
Kết quả cho thấy các cảm xúc tích cực lan truyền mạnh mẽ hơn những cảm xúc tiêu cực, với những thông điệp tích cực sẽ lây lan nhanh hơn các thông điệp tiêu cực.

6. Tuổi tác thay đổi nguyên nhân khiến chúng ta hạnh phúc
Một nghiên cứu vừa khảo sát 200 người từ 19 đến 79 tuổi về những trải nghiệm hạnh phúc, cả bình thường và khác thường, mà họ có được.
Trên khắp các nhóm tuổi, mọi người tìm thấy niềm vui thích nơi nhiều kiểu trải nghiệm khác nhau. Nhưng nhóm người cao tuổi là những người có được nhiều niềm vui nhất từ những trải nghiệm diễn ra hàng ngày.
Họ thích thú khi giành thời gian với gia đình, từ việc gặp mặt ai đó cho đến một vòng tản bộ trong công viên.
Trong khi đó, những người trẻ lại tự xác định mình bằng những trải nghiệm “phi thường” nhiều hơn.

7. Tại sao người sống vật chất lại ít hạnh phúc hơn?
Lý do là vì khi bạn tập trung vào thứ bạn muốn – những thứ bạn chưa có – bạn sẽ khó trân trọng những thứ bạn đang có hơn.
Một nghiên cứu vừa phát hiện rằng những người vật chất thường ít có lòng biết ơn và điều này liên hệ tới mức độ hài lòng với cuộc sống thấp.
Nghiên cứu trích dẫn câu nói của nhà hiền triết Hy Lạp Epicurus:
“Đừng làm hỏng những gì bạn đang có bằng cách khao khát những gì bạn chưa có; hãy nhớ rằng những thứ bạn hiện có đã từng là những thứ bạn mong có.”
Câu nói này xem ra cần phải có mặt trên tất cả các thẻ tín dụng.

8. Sức mạnh của kết nối xã hội
Một nghiên cứu cho thấy mối tương quan có liên hệ đến hạnh phúc mạnh hơn cả thành tích học tập.
Trong khi mối liên hệ giữa thành tích học tập với hạnh phúc không cao thì liên kết xã hội chặt chẽ ở tuổi nhỏ và vị thành niên gắn với mức độ hạnh phúc cao hơn trong tuổi trưởng thành.
Có vẻ như tất cả những gì bạn được dạy trong trường là chưa đủ để giúp bạn hiểu được như thế nào là hạnh phúc, cả về ý nghĩa cảm xúc lẫn thể lý.

9. Những mục tiêu hướng đến hạnh phúc
Điều bất ngờ là chúng ta thường sai lầm về những mục tiêu khiến chúng ta hạnh phúc.
Một nghiên cứu mới cho thấy một vài mục tiêu hạnh phúc cụ thể sẽ có hiệu quả hơn những mục tiêu trừu tượng.
Nghiên cứu tìm ra rằng những hành động giúp vươn tới một mục tiêu cụ thể (như khiến người khác cười) sẽ khiến chủ thể cảm thấy hạnh phúc hơn so với một mục tiêu trừu tượng (khiến ai đó hạnh phúc).
Bằng cách suy nghĩ những mục tiêu hạnh phúc theo hướng cụ thể, chúng ta có thể giảm thiểu khoảng cách giữa kỳ vọng và những điều thực sự khả thi.

10. Hạnh phúc bất ngờ từ những khoảnh khắc nhỏ nhặt
Một nghiên cứu cho thấy, những điều “tầm thường”, những trải nghiệm thường nhật có thể mang đến những niềm vui bất ngờ.
Trong một nghiên cứu, 135 sinh viên được yêu cầu viết một số nội dung vào đầu mùa hè, sau đó sẽ được niêm phong trong 3 tháng, bao gồm:
§  Một cuộc trò chuyện mới diễn ra;
§  Sự kiện xã hội cuối cùng họ vừa tham gia;
§  Một trích đoạn trong bài làm họ mới viết;
§  Và ba bài hát họ yêu thích.
Khi đó, họ cũng được yêu cầu dự đoán họ sẽ cảm thấy như thế nào về những điều trên khi họ đọc lại những thông điệp này trong 3 tháng sau.
Dù đây là những thứ khá “tầm thường” nhưng các sinh viên đều đã đánh giá thấp mức độ họ sẽ bất ngờ và tò mò ra sao khi họ xem lại những điều này.
Nghiên cứu nhắc nhớ về cách thức chúng ta thường đánh giá thấp mức độ hạnh phúc ta có được từ những sự kiện thường nhật.
Vậy, tại sao bạn không thử viết cho mình một thông điệp ngay từ ngày hôm nay?



CHÚC MỪNG NĂM MỚI ẤT MÙI 2015


Hành Lang Tâm Lý chúc tất cả các bạn một năm Ất Mùi đầy An Lành và thành công trong những điều mình theo đuổi.
Chúc cho những gì chúng ta cùng nhau đọc được, học được sẽ trở thành những điều tốt lành chúng ta trao tặng cho nhau, cho gia đình, cho xã hội trong năm nay.

HAPPY LUNAR NEW YEAR
Hàng Lang Tâm Lý


LỢI ÍCH KHI Ở TRONG NHÓM XÃ HỘI

LỢI ÍCH KHI Ở TRONG NHÓM XÃ HỘI



Hai nghiên cứu của GS Fabio Sani và cộng sự thuộc ĐH Dundee tìm hiểu về mối liên hệ giữa sức khỏe tâm thần và khả năng đồng nhất hóa với nhóm – cảm giác thuộc về một nhóm cùng với cảm giác tương đồng với các thành viên trong nhóm. Giả thuyết được đặt ra là một người đồng nhất hóa với càng nhiều nhóm thì càng ít có nguy cơ mắc phải các vấn đề sức khỏe tâm thần.

Nghiên cứu đầu tiên có mẫu gồm 1814 người trưởng thành, đánh giá mức độ đồng nhất hóa của nghiệm thể với gia đình, cộng đồng địa phương và một nhóm xã hội mà họ lựa chọn, đi kèm với việc thực hiện một bảng tự đánh giá về trầm cảm. Các nhà nghiên cứu cũng kiểm tra hồ sơ sức khỏe nhằm xem xem liệu các nghiệm thể có được chỉ định dùng thuốc chống trầm cảm trong sáu tháng qua hay không.

Nghiên cứu thứ hai thực hiện với 1111 học sinh trung học phổ thông nhằm lượng giá xem liệu các em có đồng nhất hóa bản thân với gia đình, bạn bè hay trường lớp hay không. Các nghiệm thể cũng được yêu cầu cho biết mức độ họ cảm nhận các triệu chứng rối loạn tâm lý.

Trong nghiên cứu đầu tiên, những người trưởng thành không đồng nhất hóa với bất kỳ nhóm nào có khả năng bị trầm cảm gấp 20 lần, đồng thời tỉ lệ khả năng bị chỉ định dùng thuốc chống trầm cảm trong nửa năm qua cao gấp 3 lần so với những người có đồng nhất hóa với gia đình, bạn bè hay nhóm xã hội họ lựa chọn.

Trong nghiên cứu thứ hai, các em học sinh không đồng nhất hóa với bất kỳ nhóm nào có khả năng trải nghiệm các khó khăn tâm lý cao gấp bốn lần so với những học sinh có cảm giác thuộc về một nhóm.

Các kết quả này vẫn có giá trị sau khi tính đến tuổi tác, giới tính, tình trạng kinh tế xã hội của nghiệm thể và quan trọng nhất, mức độ giao tiếp liên cá nhân giữa các thành viên trong nhóm.

GS. Fabio Sani cho biết: “Nhóm có thể giúp bảo vệ chúng ta trước trầm cảm. Tuy nhiên, điều này chỉ có thể xảy ra nếu một người tự chủ động đồng nhất hóa mình với nhóm. Hơn nữa, chúng ta đồng nhất hóa càng với nhiều nhóm thì sức khỏe tâm thần càng có tín hiệu tích cực.”



 
Ky nang ban hang ky-nang-ban-hang
10 10 1125 (c) by
Google

Join us on Facebook

Please wait..5 SecondsCancel